Điều 46 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 khẳng định Kiểm sát viên là một người tiến hành tố tụng và Kiểm sát viên có những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể được quy định tại bộ luật này. Vậy, nhiệm vụ và quyền hạn của Kiểm sát viên được quy định như thế nào?
Mục lục bài viết
- 1 1. Kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu:
- 2 2. Kiểm sát việc thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự:
- 3 3. Nghiên cứu hồ sơ vụ việc; yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự:
- 4 4. Tham gia phiên tòa, phiên họp và phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ việc:
- 5 5. Kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án:
- 6 6. Kiến nghị, yêu cầu Tòa án thực hiện đúng các hoạt động tố tụng:
- 7 7. Đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật:
- 8 8. Kiểm sát hoạt động tố tụng của người tham gia tố tụng:
1. Kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu:
Kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu là một nội dung kiểm sát quan trọng trong tố tụng dân sự. Mục đích của hoạt động kiểm sát này là nhằm tránh việc Tòa án trả lại đơn, không thụ lý đơn khởi kiện, đơn yêu cầu với những lý do không chính đáng, không phù hợp với những trường hợp trả lại đơn trong
Dựa trên những gì thu thập được, Kiểm sát viên sẽ lập phiếu kiểm sát, so sánh, đối chiếu nội dung của quyết định trả lại đơn với quy định của pháp luật để xác định việc Toà án trả lại đơn cho là đúng hay sai; quyền và nghĩa vụ của người khởi kiện, người yêu cầu được bảo vệ hay chưa. Trong thời hạn 10 ngày, kiểm sát viên có quyền kiến nghị với Toà án đã ra quyết định trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu
2. Kiểm sát việc thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự:
Nhiệm vụ này được hiểu là kiểm sát viên Kiểm sát việc thụ lý đơn, giải quyết vụ việc dân sự của Toà án. Ở đây, ta cần phải hiểu nội dung kiểm sát việc thụ lý, giải quyết vụ án theo nghĩa rộng, bao gồm tất cả các hoạt động, thủ tục giải quyết vụ án được quy định trong Phần thứ 2 – Thủ tục giải quyết vụ án của Bộ luật tố tụng dân sự (Trong đó có phần nhận và xử lý đơn khởi kiện trước khi Tòa án ra
Điều này là hoàn toàn phù hợp với các quy định tại khoản 1 Điều 21
Đó là 1 căn cứ để Viện kiểm sát kiến nghị, yêu cầu Toà án chấm dứt việc vi phạm và giải quyết đơn yêu cầu, đơn khởi kiện của các đương sự. Ngoài ra, nhiệm vụ này là giúp cho Kiểm sát viên có cái nhìn cơ bản nhất về đương sự, nội dung vụ việc, tranh chấp hay yêu cầu dân sự là gì để từ đó có tiền đề để thực hiện các nhiệm vụ kiểm sát ở các giai đoạn sau. Tương tự như đối với việc kiểm sát yêu cầu trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu, Kiểm sát viên khi nhận được
3. Nghiên cứu hồ sơ vụ việc; yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự:
Nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ vụ án, tham gia phiên tòa sơ thẩm là để kiểm sát việc tuân theo pháp luật của thẩm phán, việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng khác kể từ khi thụ lý đến khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử. Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ, Kiểm sát viên tập trung kiểm sát và kết luận 1 số hoạt động tố tụng như sau:
Thứ nhất, nghiên cứu xác định thẩm quyền thụ lý vụ việc dân sự theo Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 bao gồm thẩm quyền về nội dung (điều 26, 30, 32), thẩm quyền theo cấp Toà án (từ điều 35 đến 38), thẩm quyền theo lãnh thổ (điều 39), thẩm quyền theo lựa chọn của nguyên đơn (điều 40).
Thứ hai, xác định tư cách của đương sự và người tham gia tố tụng khác: Kiểm sát viên kiểm sát việc toà án xác định tư cách của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đã đúng với quy định tại điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 hay chưa
Thứ ba, xác định quan hệ tranh chấp giữa các đương sự: Kiểm sát viên nghiên cứu “những vấn đề cụ thể yêu cầu Tòa án giải quyết đối với người bị kiện, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan theo điểm g khoản 4 Điều 189. Trong thực tế, người khởi kiện, người yêu cầu có thể nêu đúng quan hệ tranh chấp, yêu cầu nhưng cũng có thể nêu theo tên gọi của giao dịch dân sự hoặc khởi kiện “đòi nhà cho ở nhờ” nhưng thực chất là “nhà cho thuê” hoặc tranh chấp tài sản” nhưng thực tế là “tranh chấp đòi nhà”, tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng nhà nhưng thực chất là “vay tài sản”… Kiểm sát viên phải căn cứ vào nội dung đơn và các tài liệu chứng cứ kèm theo để xác định đúng mối quan hệ tranh chấp, yêu cầu giải quyết vụ hay việc dân sự là vấn đề cơ bản đảm bảo giải quyết đúng vụ việc dân sự.
Thứ tư, xác minh, thu thập chứng cứ vụ án: trong quá trình đó, kiểm sát viên phải làm rõ các vấn đề về tính có căn cứ, tính hợp pháp của chúng cứ, tài liệu và xác định với chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ đã đủ để giải quyết vụ án chưa
Thứ năm, làm rõ những tình tiết khách quan của vụ án: kiểm sát viên bên cạnh việc kiểm sát việc cung cấp tài liệu chứng cứ của các đương sự, cơ quan, tổ chức cá nhân khác và kiểm sát việc xác minh, thu thập chứng cứ của toà án xem có hợp pháp và đầy đủ hay không thì trong trường hợp phát hiện ra những tình tiết khác có liên quan thì phải xem xét những tình tiết đó đã có những chứng cứ, tài liệu chứng minh làm rõ chưa, nếu có rồi thì nó đã thuyết phục chưa; mối liên hệ giữa tình tiết đó và việc giải quyết vụ án như thế nào. Từ đó, xác định được tình tiết nào liên quan đến vụ án mà chưa được làm rõ Sau khi nghiên cứu những nội dung trên, kiểm sát viên phải lập hồ sơ kiểm sát theo quy định tại điểm 1.1 Mục I phần II của hướng dẫn số 27/HD VKSTC-V5 ngày 22/5/2014 của Viện kiểm sát nhân dân TC hướng dẫn lập hồ sơ kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự
4. Tham gia phiên tòa, phiên họp và phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ việc:
Kiểm sát viên tham gia phiên toà
Đối với các phiên toà sơ thẩm, theo khoản 2 Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự : “Kiểm sát viên được tham gia những phiên toà sơ thẩm đối với vụ án mà Toà án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi hoặc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 4 Bộ luật này”
Nhiệm vụ của Kiểm sát viên trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phiên toà sơ thẩm được quy định tại Chương XIV Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Theo đó, Kiểm sát viên kiểm sát những hoạt động sau: việc thay thế thành viên Hội đồng xét xử trong trường hợp đặc biệt (Điều 226); sự có mặt của đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (Điều 227); việc xét xử trong trường hợp đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt tại phiên toà (Điều 228); sự có mặt của người làm chứng, người giám định, người phiên dịch (Điều 229, 230, 231). Từ đó, Kiểm sát viên có cơ sở để xác định tính có căn cứ của các quyết định mà toà án đưa ra. Trong quá trình diễn ra phiên toà, Kiểm sát viên sẽ kiểm sát thủ tục bắt đầu phiên toà (từ điều 239 đến 246) và việc tranh tụng tại phiên toà (Điều 247 đến 263)
Đối với phiên toà phúc thẩm, với tính chất và phạm vi xét xử phúc thẩm là những vấn đề trong bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm có kháng cáo kháng nghị hoặc những vấn đề có liên quan đến kháng cáo kháng nghị cho nên Kiểm sát viên chỉ trình bày nội dung kháng nghị, căn cứ của việc kháng nghị và Kiểm sát viên có quyền xuất trình thêm những tài liệu, chứng cứ bổ sung. Việc hỏi được thực hiện như tại phiên toà sơ thẩm nhưng chỉ đối với những vấn đề thuộc phạm vi xét xử phúc thẩm tại Điều 293 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Trong quá trình tranh luận đối với kháng nghị, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về những vấn đề mà người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và đương sự nêu, từ đó có căn cứ để bảo vệ kháng nghị hoặc rút kháng nghị, đồng thời hoàn chỉnh văn bản phát biểu ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên toà.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ việc
Nhiệm vụ này được cụ thể hoá tại Điều 262 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Theo đó, bên cạnh việc phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng, Kiểm sát viên còn được quyền phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án.
Tại phiên tòa, dựa trên dự thảo bài phát biểu đã được Lãnh đạo đơn vị kiểm duyệt về nội dung theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-TANDTC-Viện kiểm sát nhân dân TC của
Trên thực tế, Kiểm sát viên không được chủ quan, ỷ lại vào dự thảo đã chuẩn bị vì dự thảo được chuẩn bị trước phiên tòa nên những phần về sự có mặt/vắng mặt hoặc các vi phạm của người tham gia tố tụng chưa được cập nhật. Ngoài ra, tại phiên tòa có thể có một số tình huống phát sinh ngoài dự kiến như người khởi kiện rút đơn khởi kiện hoặc các đương sự đối thoại thành tại phiên tòa, do vậy Kiểm sát viên phải chỉnh sửa bài phát biểu cho phù hợp diễn biến phiên tòa. Khi phát biểu, cần tránh việc phát biểu nhanh, không có điểm nhấn, không thoát ly với tài liệu đã chuẩn bị sẵn, không kịp thời bổ sung kết quả phần hỏi và phần tranh luận tại phiên tòa, dẫn tới quan điểm của Viện kiểm sát do Kiểm sát viên trình bày chưa phản ánh quá trình diễn biến tại phiên tòa và chưa có tính thuyết phục.
Nâng cao chất lượng ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa, phiên họp giải quyết các vụ án hành chính, vụ việc kinh doanh thương mại, lao động là hoạt động giúp cho Kiểm sát viên thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ công tác kiểm sát hoạt động tư pháp, góp phần nâng cao vị thế của Viện kiểm sát nhân dân
Sự thay đổi này của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 là hợp lý bởi Kiểm sát viên là người kiểm sát việc giải quyết vụ án ngày từ khi vụ án dân sự được khởi kiện, đồng thời kiểm sát viên cũng nghiên cứu vụ án nên nắm rõ bản chất của vụ án đó. Vì thế, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên về việc giải quyết vụ án là một kênh quan trọng để Hội đồng xét xử có thể tham khảo đánh giá về tính hợp pháp của đối tượng khởi kiện. Nếu Kiểm sát viên đưa ra được lời phát biểu có căn cứ thuyết phục về vụ án, Hội đồng xét xử sẽ dựa vào đó để đưa ra phương hướng giải quyết vụ án.
Ngoài ra, việc bổ sung quy định: “Ngay sau khi kết thúc phiên toà, Kiểm sát viên phải gửi văn bản phát biểu ý kiến cho Toà án để lưu vào hồ sơ vụ án” đảm bảo việc hoàn tất hồ sơ vụ án theo đúng quy định của pháp luật, tạo ra sự thuận tiện cho sự kiểm tra, rà soát lại hồ sơ vụ án sau này.
5. Kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án:
Kiểm sát viên có nhiệm vụ đánh giá các văn bản tố tụng của Tòa án. Để kiểm tra tính hợp pháp của các văn bản tố tụng do Thẩm phán ban hành trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, Kiểm sát viên thông qua việc nghiên cứu, đánh giá các văn bản tố tụng có trong hồ sơ vụ án nhằm kiểm tra việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán khi ban hành những văn bản như: Giấy triệu tập người tham gia tố tụng, Quyết định áp dụng biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án, Biên bản lấy lời khai, Biên bản thẩm định…; Quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án, tách nhập vụ án…, đặc biệt là quyết định áp dụng, thay đổi, bổ sung, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời; Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm; Quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự… Kiểm sát viên phải nghiên cứu chi tiết từng văn bản như ngày, tháng, năm ban hành; thẩm quyền ban hành, con dấu, chữ ký của người có thẩm quyền…
Khi nghiên cứu các văn bản nêu trên, Kiểm sát viên phải đối chiếu để xem xét văn bản đó có phù hợp với quy định của pháp luật hay không. Các vấn đề tố tụng như: thời hạn, thời hiệu tố tụng, trách nhiệm cung cấp tài liệu chứng cứ, việc áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ, hay việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời… đều phải được kiểm tra, kết luận để bảo đảm thực hiện đúng pháp luật tố tụng. (Nhiệm vụ, quyền hạn và hoạt động của Kiểm sát viên khi nghiên cứu hồ sơ tham gia phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự).
6. Kiến nghị, yêu cầu Tòa án thực hiện đúng các hoạt động tố tụng:
Yêu cầu, kiến nghị là những quyền năng pháp lý mà pháp luật nói chung và pháp luật tố tụng dân sự nói riêng quy định cho Viện kiểm sát để thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của pháp luật.
Dưới góc độ ngôn ngữ học, thuật ngữ “yêu cầu” là “nêu ra điều gì với người nào đó, tỏ ý muốn người ấy làm, biết rằng đó là việc thuộc nhiệm vụ, trách nhiệm hoặc quyền hạn, khả năng của người ấy”. Ở góc độ pháp lý, quyền yêu cầu là quyền năng quan trọng mà luật trao cho Kiểm sát viên để thực hiện việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự.
Theo đó, trong quá trình kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự, Kiểm sát viên thực hiện quyền yêu cầu đối cơ quan, tổ chức, cá nhân: Thực hiện hoạt động tư pháp theo đúng quy định của pháp luật, kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định trong hoạt động tư pháp; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền khắc phục, xử lý nghiêm minh vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp (Điểm a, c Khoản 3 Điều 4
Dưới góc độ ngôn ngữ học, thuật ngữ “kiến nghị” được hiểu là: “Nêu ý kiến đề nghị về một việc chung để cơ quan có thẩm quyền xét và giải quyết”.
Trong khoa học luật tố tụng, kiến nghị là việc cơ quan, cá nhân, tổ chức đề nghị với các cơ quan tiến hành tố tụng khắc phục những vi phạm và thực hiện đúng những quy định của pháp luật tố tụng… Dưới góc độ khoa học kiểm sát, kiến nghị là quyền năng, là biện pháp pháp lý quan trọng của Kiểm sát viên khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, góp phần đảm bảo cho pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh, thống nhất.
Để thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị trong tố tụng dân sự, điều kiện bắt buộc là Kiểm sát viên phải phát hiện được các vi phạm trong quá trình giải quyết vụ án thông qua các hoạt động cụ thể của Thẩm phán. Trên thực tế việc thiếu sót, vi phạm trong một vụ, việc dân sự nào đó của Thẩm phán là khó tránh khỏi chỉ là vi phạm nhiều hay ít, nghiêm trọng hay không mà thôi. Để phát hiện được các vi phạm này Kiểm sát viên không chỉ dựa vào những quy định của phạm luật mà còn dựa vào kinh nghiệm công tác thực tế của bản thân.
Trên cơ sở các vi phạm pháp luật đã phát hiện, Kiểm sát viên phải xác định tính chất mức độ nghiêm trọng của từng vi phạm để thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị một cách phù hợp.
7. Đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật:
Kháng nghị bản án, quyết định dân sự là hoạt động tố tụng của người tiến hành tố tụng có thẩm quyền phản đối bản án, quyết định dân sự khi phát hiện hành vi, bản án, quyết định của Toà án có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, xâm phạm quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức cá nhân, yêu cầu Toà án có thẩm quyền xét xử lại.
kháng nghị có ý nghĩa rất quan trọng giúp nâng cao hiệu quả của công tác kiểm sát bảo đảm cho việc giải quyết các vụ án dân sự được đúng đắn. Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp và cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị bản án sơ thẩm, quyết định tạm đình chỉ giải quyết quyết vụ án dân sự của Toà án cấp sơ thẩm để yêu cầu toà án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm. Theo điểm d khoản 1 Điều 57 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định Viện trưởng Viện kiểm sát có quyền “Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của Toà án theo quy định của Bộ luật này”. Đồng thời khoản 3 Điều 58
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định Kiểm sát viên có quyền “Đề nghị viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định của Toà án có vi phạm pháp luật”. Thời hạn kháng nghị đối với bản án của Toà án cấp sơ thẩm của Viện kiểm sát cùng cấp là 15 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 01 tháng kể từ ngày tuyên án. Trường hợp Kiểm sát viên không tham gia phiên toà thì thời hạn kháng nghị tính từ ngày Viện Kiểm sát cùng cấp nhận được bản án. Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp đối với quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm là 07 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 10 ngày, kể từ ngày Viện kiểm sát cùng cấp nhận được quyết định.
8. Kiểm sát hoạt động tố tụng của người tham gia tố tụng:
Những người tham gia tố tụng trong Tố tụng dân sự được quy định tại Chương VI Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 bao gồm: Đương sự; người đại diện của đương sự; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; người làm chứng; người giám định, người phiên dịch (nếu có). “Kiểm sát hoạt động tố tụng của người tham gia tố tụng” là hoạt động của Kiểm sát viên trong việc kiểm tra và giám sát việc chấp hành pháp luật liên quan đến những trình tự, thủ tục của người tham gia tố tụng, từ đó phát hiện ra những vi phạm, kịp thời đề ra những yêu cầu kiến nghị với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý nghiêm minh nhằm bảo vệ quyền, lợi ích của những người tham gia tố tụng khác.