Hòa giải dân sự. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, tòa án tiến hành hòa giải để các bên thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án.
Quan hệ dân sự là quan hệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau trên cơ sở thỏa thuận giữa các chủ thể đó. Khi một bên trong quan hệ thực hiện không đúng nội dung thỏa thuận, xâm phạm đến lợi của bên còn lại thì bên còn lại có quyền yêu cầu bên vi phạm bồi thường. Việc giải quyết khi một bên có hành vi vi phạm thỏa thuận trước hết do các bên tự thỏa thuận giải quyết, nếu không thỏa thuận được – xảy ra tranh chấp, một trong các bên có thể khởi kiện đến Tòa án. Trong giải quyết tranh chấp dân sự, Tòa án trên cơ sở đánh giá các chứng cứ do đương sự cung cấp xem xét yêu cầu của bên nào phù hợp với quy định của pháp luật sẽ chấp nhận yêu cầu của bên đó. Tuy nhiên, trước khi mở phiên tòa xét xử vụ án dân sự , Tòa án vẫn tiến hành hòa giải hòa giải và đây là một nguyên tắc cơ bản trong tố tụng sân sự được quy đinh tại Điều 10 Bộ luật tố tụng dân sự 2004:
“Toà án có trách nhiệm tiến hành hoà giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này”.
Về khái niệm, hòa giải vụ án dân sự là việc tòa án tiến hành giải thích pháp luật, giúp đỡ các đương sự giải quyết mâu thuẫn, thỏa thuận với nhau về việc giải quyết các vấn đề của vụ án dân sự. Hoạt động này của tòa án được tiến hành trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự (sau khi thụ ký vụ án đến khi có quyết định mở phiên tòa sơ thẩm). Việc hòa giải trước khi xét xử sơ thẩm là thủ tục bắt buộc, trừ những việc không hòa giải được hoặc pháp luật quy định không được hòa giải được quy định tại Điều 181, Điều 181 Bộ luật tố tụng dân sự 2004:
“Điều 181. Những vụ án dân sự không được hoà giải
1. Yêu cầu đòi bồi thường gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước.
2. Những vụ án dân sự phát sinh từ giao dịch trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội.
Điều 182. Những vụ án dân sự không tiến hành hoà giải được
1. Bị đơn đã được Toà án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt.
2. Đương sự không thể tham gia hoà giải được vì có lý do chính đáng.
3. Đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người mất năng lực hành vi dân sự”.
Về phạm vi hòa giải, tại khoản 1 Điều 180 Bộ luật tố tụng dân sự quy định:
“Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án, Toà án tiến hành hoà giải để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án”.
Nghĩa là, trong phiên hòa giải các bên sẽ xem xét, thỏa thuận được việc giải quyết tất cả các yêu cầu mà các bên đưa ra trong vụ án và cả án phí sơ thẩm.
>>> Luật sư
Về thủ tục hòa giải:
– Chuẩn bị cho việc hòa giải:
+) Trước khi tiến hành phiên hòa giải, tòa án phải
+) Thành phần phiên hòa giải bao gồm: Thẩm phán chủ trì phiên hoà giải; Thư ký Toà án ghi biên bản hoà giải và các đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của các đương sự; người phiên dịch (nếu đương sự không biết tiếng Việt).
– Tiến hành hòa giải: Khi đã có đầy đủ điều kiện để tiến hành hòa giải thì thẩm phán được phân công giải quyết vụ án có cán bộ thư ký tòa án giúp việc ghi biên bản sẽ tiến hành giải phiên hòa giải.
+) Thẩm phán công bố nội dung vụ án tranh chấp, phổ biến cho các đương sự biết các quy định của pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án để các bên liên hệ đến quyền và nghĩa vụ của mình. Thẩm phán phân tích hậu quả pháp lý của việc hòa giải thành hoặc không thành để các bên đương sự tự nguyện thương lượng thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án.
+) Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phát biểu quan điểm của họ về vấn đề đang tranh chấp và đưa ra định hướng giải quyết.
– Kết thúc hòa giải: Phiên hòa giải kết thúc khi các vấn đề hòa giải đều được đưa ra để các bên xem xét. Khi các đương sự thoả thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án dân sự thì Toà án lập biên bản hoà giải thành. Hết thời hạn 7 ngày, kể từ ngày
Như vậy, việc tiến hành hòa giải trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự sẽ góp phần rút ngắn thời gian giải quyết vụ án. Nhất là trong trường hợp Tòa án hoà giải thành công vụ án dân sự thì không cần mở phiên tòa xét xử vụ án, giảm bớt một giai đoạn tố tụng kéo dài và cực kỳ phức tạp, tiết kiệm được thời gian, tiền của cho Nhà nước và cho nhân dân.