Quy định các trường hợp không áp dụng biện pháp tạm giam? Căn cứ áp dụng tạm giam theo quy định của pháp luật hình sự?
Tạm giữ tạm giam là biện pháp ngăn chặn được áp dụng với bị can và bị cáo, tuy nhiên trong những trường hợp cụ thể pháp luật quy định không áp dụng biện pháp này để thể hiện sự nhân đạo của pháp luật Việt Nam đối với những đối tượng này. Vậy quy định các trường hợp không áp dụng biện pháp tạm giam gồm những bi can bị cáo như thế nào? Bài viết dưới đây của công ty Luật Dương Gia chúng tôi xin cung cấp thông tin chi tiết về nội dung này.
Cơ sở pháp lý:
1. Quy định các trường hợp không áp dụng biện pháp tạm giam
Theo quy định của pháp luật thì “Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với các bị can bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hay bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ để cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.”
Theo đó có thể hiểu việc tạm giam là một trong những biện pháp ngăn chặn có tính chất nghiêm khắc nhất trong các biện pháp nghiêm trọng trong tố tụng hình sự. Người bị tạm giam phải sống cách ly khỏi xã hội trong một thời gian nhất định tùy thuộc vào từng loại tội phạm đã thực hiện ngoài ra người bị tạm giam còn bị hạn chế một số quyền công dân. Chính vì thế, biện pháp tạm giam chỉ được áp dụng trong những trường hợp đặc biệt và thật sự là cần thiết, đó là:
Trường hợp thứ nhất đó là bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc phạm tội rất nghiêm trọng.
Trường hợp thứ hai đó là bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng hoặc phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù từ trên 2 năm và có căn cứ để cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
Bên cạnh đó có những trường hợp theo pháp luật quy định thì không áp dụng biện pháp tạm giam cụ thể theo quy định tại khoản 4 điều 119 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định cụ thể:
” 4. Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ các trường hợp:
a) Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã;
b) Tiếp tục phạm tội;
c) Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này;
d) Bị can, bị cáo về tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác định nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.”
Kết luận: Dựa trên những quy định mà pháp luật đưa ra chúng ta có thể thấy việc quy định như vậy nhằm đảm bảo nguyên tắc nhân đạo của pháp luật chúng ta đối với phụ nữ có thai, người cao tuổi và cũng để đảm bảo được ý nghĩa của mục đích của tạm giam là để ngăn chặn bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội hoặc có hành vi gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án đối với những người bị bệnh hiểm nghèo hay là những người trong tình trạng tính mạng đang bị đe dọa.
2. Căn cứ áp dụng tạm giam theo quy định của pháp luật hình sự
Như chúng ta đã biết thì thực hiện việc tạm giam một người nào đó theo quy định là một trong những biện pháp ngăn chặn có tính chất nghiêm khắc nhất trong các biện pháp ngăn chặn của tố tụng hình sự. Người bị áp dụng biện pháp tạm giam bị cách li với xã hội trong một thời gian nhất định, bị hạn chế một số quyền của công dân, Pháp luật hình sự cũng quy định những căn cứ để có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam cụ thể sau đây:
Trường hợp thư nhất đó là áp dụng với bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội rất nghiêm trọng.
Trường hợp thứ hai, bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng hoặc tội ít nghiêm trọng mà bộ luật hình sự 2015 có quy định hình phạt tù trên 2 năm và có căn cứ xác định người đó ở vào một trong các trường hợp sau:
“Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm; Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can; Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn; Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội; Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này. Ngoài ra, Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù đến 02 năm nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã.” (khoản 2, 3 Điều 119 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 ). Khi phạm tội thuộc những trường hợp trên các bị can, bị cáo áp dụng bị áp dụng biện pháp tạm giam.
Và ngoài ra đối với các trương hợp “Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ các trường hợp: Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã; Tiếp tục phạm tội; Bị can, bị cáo về tội xâm phạm an ninh quốc gia…” (khoản 4 Điều 119 Bộ luật tố tụng hình sự 2015). Theo như chúng tôi trình bày ở phần trên thì quy định này thể hiện tính nhân đạo của nhà nước, nhưng lại gặp khó khăn khi chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về các trường hợp đặc biệt này.
Bên canh đó trong các trường hợp với đối tượng là người già yếu, không có sự thống nhất trong pháp luật hình sự và tố tụng hình sự hiện hành. Đối với đối tượng già yếu Căn cứ theo quy định pháp luật đề ra tại
“Mắc bệnh hiểm nghèo là trường hợp mà bệnh viện cấp tỉnh, bệnh viện quân đội cấp quân khu trở lên có kết luận là người được hưởng án treo đang bị bệnh nguy hiểm đến tính mạng, khó có phương thức chữa trị, như: Ung thư giai đoạn cuối, xơ gan cổ trướng, lao nặng độ 4 kháng thuốc, bại liệt, suy tim độ 3, suy thận độ 4 trở lên; HIV giai đoạn AIDS đang có các nhiễm trùng cơ hội không có khả năng tự chăm sóc bản thân và có nguy cơ tử vong cao.”
Lưu ý về về căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam không có nơi cư trú rõ ràng. Để có thể áp dụng được căn cứ này, các cơ quan tiến hành tố tụng cần xác định được nơi cư trú của bị can, bị cáo dựa theo Luật Cư trú và Luật cư trú năm 2020 có hiệu lực từ 01/7/2021. Xác định nơi cư trú của công dân bao gồm ” nơi thường trú, nơi tạm trú còn trường hợp nơi cư trú của người không có cả nơi thường trú và nơi tạm trú do không đủ điều kiện đăng ký thường trú, đăng ký tạm trú là nơi ở hiện tại của người đó; trường hợp không có địa điểm chỗ ở cụ thể thì nơi ở hiện tại được xác định là đơn vị hành chính cấp xã nơi người đó đang thực tế sinh sốn. Người không có nơi thường trú, nơi tạm trú phải khai báo thông tin về cư trú với cơ quan đăng ký cư trú tại nơi ở hiện tại.” (Điều 19 Luật Cư trú năm 2020) theo đó cần có văn bản hướng dẫn cụ thể về các trường hợp này. Nếu không hướng dẫn có thể làm cho các cách hiểu không thống nhất giữa các cơ quan tố tụng, dẫn tới có thể lạm dụng biện pháp tạm giam, ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo.
Đối với các trường hợp chúng tôi đưa ra như trên thì thẩm quyền áp dụng đó là đối với những người có quyền ra lệnh, quyết định bắt bị can, bị cáo để tạm giam: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp. Trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành; Viện trưởng, Phó Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng viện kiểm sát quân sự các cấp; Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp, Hội đồng xét xử.
Trên đây là thông tin chúng tôi cung cấp về nội dung ” Quy định các trường hợp không áp dụng biện pháp tạm giam” và các thông tin pháp lý khác dựa trên quy định của pháp luật hiện hành.