Phép lịch sự xã giao trong lễ tân ngoại giao được hiểu là phép xử sự (xử thế) giữa các chủ thể của quan hệ quốc tế hoặc giữa các công dân với nhau có tư cách nhà nước. Phép lịch sự xã giao trong lễ tân ngoại giao đặc biệt quan trọng khi tiếp xúc với khách nước ngoài vì khi đó hoạt động của cán bộ đối ngoại không mang tính chất đại diên cho cá nhân mà là đại diện cho cả quốc gia.
Mục lục bài viết
1. Khái quát chung về phép lịch sự ngoại giao trong lễ tân ngoại giao:
Phép lịch sự xã giao nói chung là phép xử thế giữ người với người trong đời sống xã hội nhằm bày tỏ lòng tự trọng và tôn trọng mọi người trong quan hệ xã hội.
Phép lịch sự xã giao trong lễ tân ngoại giao được hiểu là phép xử sự (xử thế) giữa các chủ thể của quan hệ quốc tế hoặc giữa các công dân với nhau có tư cách nhà nước. Phép lịch sự xã giao trong lễ tân ngoại giao đặc biệt quan trọng khi tiếp xúc với khách nước ngoài vì khi đó hoạt động của cán bộ đối ngoại không mang tính chất đại diên cho cá nhân mà là đại diện cho cả quốc gia.
Nhìn nhận lại diễn biến lịch sử của dân tộc, cá nhân em thấy rằng: Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là bậc thầy của lễ tân ngoại giao. Hồ Chí Minh chính là người đã kết hợp một cách sâu sắc, tinh tế và tế nhị giữa phép lịch sự ngoại giao và truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc trong ngoại giao quốc tế. Chúng ta cần học hỏi và áp dụng có sáng tạo những kinh nghiệm đó của Người để bảo đảm cho công việc trong lễ tân ngoại giao nói chung và phép lịch sự ngoại giao nói riêng diễn ra trôi chảy, có hiệu quả và quan trọng nhất là thể hiện được nét đẹp trong cách xử thế của Việt Nam với các quốc gia trên thế giới.
2. Nội dung của phép lịch sự xã giao trong lễ tân ngoại giao:
a, Chào hỏi, bắt tay
Ngày nay nhu cầu giao tiếp ngày càng mở rộng. Trong giao tiếp, tục ngữ Việt nam có câu “ lời chào cao hơn mâm cỗ” thể hiện sự thân thiên và sự tôn trọng lẫn nhau. Chào hỏi, bắt tay không chỉ biểu lộ tình cảm mà còn là phép lịch sự xã giao. Song chào, hỏi và bắt tay như thế nào lại là vấn đề tế nhị, cần cân nhắc cho phù hợp.
Chào hỏi có nhiều cách: bằng lời nói, nụ cười hay khóe mắt; bằng gật đầu, giơ tay, ngả mũ, khẽ cúi đầu…Tùy theo cương vị, lứa tuổi để vận dụng cách nào cho đúng. Khi gặp nhau thì nam chào nữ trước, trẻ chào già trước, người mới đến chào người đến trước, người từ ngoài vào chào người ở trong phòng.
Không rõ là thói quen bắt tay có từ bao giờ và nguồn gốc từ đâu, nhưng có lẽ đến giờ mọi người đều thừa nhận một điều hiển nhiên rằng bắt tay là một cử chỉ quen thuộc và cần thiết trong mọi cuộc giao tiếp. Bắt tay là một hành vi phổ quát toàn nhân loại. Khi một ai đó từ chối bắt tay đối tác (điều này chúng ta rất hay gặp trong các nghi thức ngoại giao quốc tế) tức là quan hệ giữa họ đang có “vấn đề”.
Cần phải lưu ý đừng vì phấn khích quá mà bóp tay quá mạnh và nắm mãi không rời (dù tình cảm có nồng nàn đến mấy), nhất là bên cạnh đang còn có bao người cần đáp lễ hoặc là người mà ta bắt tay lại là một phụ nữ. Ngược lại, cũng có người bắt tay chiếu lệ, quá hờ hững cho qua. Ta chưa kịp nắm lấy họ đã vội buông ra ngay, bắt tay người này nhưng mắt lại nhìn sang người khác, làm cho người tiếp xúc cảm thấy hẫng hụt như mình bị coi thường, không được tôn trọng. Và cũng có vị (nhất là các vị chức sắc), lại có thái độ phân biệt, chỉ chú ý tới các khách quan trọng và dành sự vồn vã cho các họ. Điều đó, sẽ làm cho những vị khách còn lại không hài long và có thái độ phản cảm đối với quốc gia tiếp đón.
Bắt tay khi chào hỏi là một cử chỉ thường gặp nhất và đã trở nên quá quen thuộc đối với chúng ta. Tuy nhiên, cái bắt tay có thể biểu lộ nhiều điều. Để biểu lộ sự thân thiện và lòng kính trọng với người đối diện, chúng ta nên đưa cả bàn tay ra bắt với một cái siết nhẹ có sinh khí, đồng thời nhìn vào mặt đối phương và mỉm cười. Không nên đưa tay hững hờ hay siết tay quá chặt, cầm tay người kia lắc quá mạnh, lúc bắt tay mắt lại nhìn đi chỗ khác, tay kia còn đút túi hay cầm thuốc lá. Nguyên tắc là khi bắt tay, phụ nữa đưa tay cho nam giới bắt, người già đưa tay cho người trẻ, cấp trên đưa tay cho cấp dưới. Phụ nữ khi bắt tay nam giới không nên đưa tay cao qua. Nếu người phụ nữa đưa tay hơi cao và lòng bàn tay úp xuống, có nghĩa là muốn được hôn tay. Khi hai cặp nam nữ gặp nhau, hai người phị nữ bắt tay nhau trước, sau đó hai người phụ nữ bắt tay hai người đàn ông, rồi cuối cùng mới là hai người đàn ông bắt tay nhau. Khi gặp một người quen trong bàn tiệc, chúng ta không nên vươn tay qua bàn để bắt tay mà chỉ cần gật đầu chào là đủ. Nếu thực sự muốn bắt tay thì nên đi vòng qua bàn đến bên người đó để làm việc này. Khi bắt tay, nam giới phải bỏ găng ra, đối với phụ nữ thì điều này không bắt buộc.
Chào hỏi, bắt tay chỉ là một hành vi xã giao đơn giản, nhưng từ hành vi bắt tay mô hình chung chúng ta đã nhẹ nhàng giới thiệu với bạn bè một cách khéo léo tầm hiểu biết, sự lịch lãm, văn minh và văn hoá của cả đất nước, dân tộc. Chính vì vậy chúng ta cần có sự khóe léo. Tinh tế và sâu sắc thể hiện được sự thân thiện, mến khách ngay từ những cử chỉ đầu tiên đó là: Bắt tay cho đúng mực, cho phải phép!
b, Tác phong: Trong khi tiếp xúc với người nước ngoài, phải thường xuyên quan tâm đến hình thức bề ngoài, từ cách ăn mặc đến tư thế tác phong. Không được làm những điều sau đây trước mặt khách hàng:
Không cắn móng tay, nhổ râu, ngoáy mũi, gãy tai; không búng tay kiểu tanh tách hoặc bỏ tay làm kêu các khớp; đưa ngón tau chỉ chỉ, trỏ trỏ đặc biệt là vào mặt của người khác, ngáp, vươn vai, nhả khói thuốc vào người khác, khi nới hếch hếch cằm chỉ người đối thoại.
Không đội mũ trong phòng khách, không vào phòng khách khi đang còn hút thuốc, không ngồi rung đùi khi tiếp khách, không nhìn chằm chằm bào những đồ vật trong phòng khách mà mình mới tiếp xúc.
Khi ra vào phòng khách hoặc ở những nơi công cộng, không nên đi trước các bà, phải nhường phái nữ ra hoặc bào trước. Khi đi cùng với cợ mà người ta nhường vợ mình ra hoặc vào trước thì người chồng không nên bước theo vợ mà phải đi sau người nhường bước cho vợ mình, trừ trường hợp người ta cũng nhường bước cho mình.
c, Thái độ: Người làm công tác đối ngoại cần phải rèn luyện cho mình luôn có thái độ khiêm tốn nhưng không tự ti. Lịch sự nhã nhặn không quá dè dặt, thật thà, cởi mở tự nhiên không khách khí.
Thái độ tiếp xúc ban đầu rất quan trong, nếu làm cho khách thấy mình được trân trọng, hài lòng với sự đón tiếp thì sẽ gây được thiện cảm và những ấn tượng tốt đẹp cho khách. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho công tác đối ngoại sau này. Ngược lại, nếu để khách thấy sự lạnh nhạt, quá dè dặt hoặc kiểu cách sẽ không có lợi cho mối quan hệ giữa các bên.
3. Vai trò của phép lịch sự xã giao trong lễ tân ngoại giao:
Phép lịch sự xã giao có vai trò quan trọng trong lễ tân ngoại giao vì nó là sự thể hiện đường lối chính sách và quan điểm đối ngoại của các quốc gia thông qua hành vi cụ thể ( hành động hoặc không hành động).
Trong giao tiếp quốc tế, phép lịch sự xã giao có ảnh hưởng to lớn đến đất nước, đến dân tộc vì một hành vi giao tiếp lịch sự hay không lịch sự của một người có thể dẫn tới sự đánh giá của người khác về văn hóa, văn minh của cả dân tộc. Hay nói cách khác, là một cán bộ đối ngoại phép lịch sự xã giao vô cùng quan trọng khi mọi người nhìn vào hành vi, cử chỉ, lời nói, cách đối xử của bản thân bạn để qua đó đánh giá xã hội, đất nước của bạn. Có thể khẳng đinh rằng trong đối ngoại, trong xã giao, phép lịch sự xã giao càng có vai trò quan trọng bởi chủ thể tham gia giao tiếp trong trường hợp này không phải chỉ đại diện cho cá nhân mà chính là đại diện cho quốc gia, dân tộc.
Phép lịch xã giao trong lễ tân ngoại giao không chỉ thể hiện cách xử thế giữa cá nhân với cá nhân mà quan trọng hơn nó thể hiện cách xử thế giữa quốc gia với quốc gia vì cán bộ đối ngoại của quốc gia trong quan hệ quốc tế chính là đại diện cho quốc gia đó. Ứng xử trong giáo tiếp ngoại giao được đánh giá là tích cực khi gây ấn tượng tốt đối với các đối tác tiếp xúc ngay lần gặp đầu tiên; bởi vì, xét về yếu tố tâm lí ấn tượng đầu tiên thường bền lâu và khó thay đổi. Đây là tiền đề quan trọng đảm bảo quá trình tiếp xúc tiếp theo sẽ đặt kết quả tích cực. Do đó, khi phép lịch sự xã giao được quốc gia thể hiện tốt sẽ giúp thể hiện sự tôn trọng của quốc gia đó với quốc gia bạn và tôn trọng chính bản thân của quốc gia đó.
Phép lịch sự xã giao trong lễ tân ngoại giao không đặt ra những chuẩn mực nhất định nhưng nó vẫn giữ được bản sắc dân tộc của quốc gia. Điều đó thật dễ hiểu, bởi lẽ trong giao tiếp quốc tế không đặt ra một nguyên tắc chung rằng trong xã giao quốc tế các chủ thể phải làm những gì và làm như thế nào? Tuy nhiên, trong thực tế đời sống quan hệ quốc tế các quốc gia tự bản thân mình xử sự theo những hành vi chung, tập quán chung của quốc tế. Bởi vì có nhiều điểm chung trong phép lịch sự xã giao nên những quy tắc chung đó cũng chính là thước đo để đánh giá mức độ lịch sự xã giao của mỗi quốc gia trong quan hệ quốc tế. Bên cạnh đó, qua phép lịch sự ngoại giao các chủ thể cũng truyền tải được những nét đẹp văn hóa của quốc gia mình đối với quốc gia bạn; cùng tôn vinh được những bản sắc văn hóa riêng đặc sắc của từng quốc gia.
Phép lịch sự xã giao chính là cách thức tốt nhất giúp đạt được hiệu quả trong đường lối, chính sách đối ngoại của các quốc gia. Điều này cũng dễ hiểu bởi lẽ, đường lối, chính sách của một quốc gia sẽ là yếu tố chủ yếu chi phối hoạt động đối ngoại của quốc gia đó. Từ đó, giúp bày tỏ thái độ tôn trọng, thiện chí, hướng tới tiếng nói chung và thúc đẩy mối quan hệ quốc tế. Thông qua cách xử sự, ứng xử của quốc gia sẽ thể hiện được mong muốn, mục đích của quốc gia đó với quốc gia bạn. Ngược lại, thái độ xử thế của quốc gia chủ, quốc gia bạn sẽ hiểu được điều mà quốc gia chủ muốn xây dựng giữa 2 quốc gia.