Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính là hai bài thơ tiêu biểu cho hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ của toàn dân tộc. Cùng tham khảo những bài văn Phân tích vẻ đẹp của người lính qua hai bài thơ Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính dưới đây nhé:
Mục lục bài viết
- 1 1. Dàn ý phân tích vẻ đẹp của người lính qua hai bài thơ Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính:
- 2 2. Phân tích vẻ đẹp của người lính qua hai bài thơ Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính hay nhất:
- 3 3. Phân tích vẻ đẹp của người lính qua hai bài thơ Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính ngắn gọn:
1. Dàn ý phân tích vẻ đẹp của người lính qua hai bài thơ Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính:
1. Mở bài
– Giới thiệu khái quát về hình ảnh các chiến sĩ trong hai cuộc kháng chiến của dân tộc.
– Giới thiệu chung về tác giả Chính Hữu và tác giả Phạm Tiến Duật
– Giới thiệu khái quát bài thơ “Đồng chí” và bài thơ “Bài thơ về đội xe không kính”.
– Nêu vấn đề cần phân tích: Vẻ đẹp của người lính qua hai bài thơ “Đồng chí” và “Bài thơ về đội xe không kính”.
2. Thân bài
a. Hình tượng người lính trong cả hai bài thơ đều là những con người giàu ý chí, nghị lực, chấp nhận, coi thường và vượt lên trên mọi khó khăn ấy bằng tinh thần lạc quan
– Đồng chí:
+ Hình ảnh những người lính thiếu thốn, sốt rét khủng khiếp, “vầng trán đẫm mồ hôi”, “áo rách vai”, “quần vài mảnh vá”, “chân không giày”.
+ Những người lính đó vẫn tràn đầy lạc quan. Hình ảnh “nụ cười lạnh lùng” là hình ảnh tiêu biểu nhất thể hiện thái độ lạc quan, bất chấp mọi thử thách, khó khăn.
– Bài thơ về đội xe không cửa sổ:
+ Nghệ thuật lặp lại cấu trúc “không có… ừ ….” với việc sử dụng cấu trúc lặp “ cần…” và hình ảnh thơ độc đáo “thắp một điếu thuốc”, “Gió thổi và nó khô nhanh.”
→ Cảm nhận rõ ràng tinh thần lạc quan của những người lính lái xe trên tuyến Trường Sơn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
b. Hình ảnh những người lính hiện lên với tinh thần đồng chí, đồng đội sâu sắc và cao đẹp
– Đồng chí: tình đồng chí, đồng đội là sợi chỉ xuyên suốt toàn bộ tác phẩm và có lẽ vì thế mà trong bài thơ, tình đồng chí, đồng đội hiện lên rõ nét với nhiều biểu cảm khác nhau.
+ Những người lính ấy luôn thấu hiểu tâm tư, tình cảm của nhau – thấu hiểu cảnh ngộ, thấu hiểu nỗi nhớ quê hương luôn hiện hữu trong tâm hồn người lính.
+ Luôn dấn thân, cùng nhau chịu đựng, chia sẻ mọi khó khăn, thiếu thốn của cuộc sống quân ngũ.
+ Tình yêu gắn bó và luôn sẵn sàng chia sẻ, thể hiện qua hình ảnh “tay nhau tay nắm lấy bàn tay”
– Bài thơ về đội xe không cửa sổ:
+ Tình đồng chí, đồng đội sâu sắc được thể hiện rõ nét qua những cái bắt tay đầy tình cảm.
→ Đó là cái bắt tay đầy cảm thông sâu sắc, là lời động viên thầm lặng, là sự sẻ chia niềm vui, nỗi buồn, khó khăn trên chặng đường mà những người lính đã chia sẻ với nhau.
c. Hình ảnh người lính trong cả hai bài thơ đều hiện lên với tư thế ung dung, hiên ngang, bất khuất
– Đồng chí: Hình ảnh “chờ giặc tới” đã vẽ ra trước mắt chúng ta tư thế của những người lính luôn trong tư thế chủ động, kiêu hãnh, sẵn sàng đánh giặc, không chút lo lắng. sợ hãi
– Bài thơ về đội xe không cửa sổ
+ Trên bối cảnh của cuộc chiến tranh tàn khốc đó, hình ảnh những người lính xuất hiện với dáng vẻ “bình dị” và điềm tĩnh của người lính.
+ Các chiến thuật “nhìn đất”, “nhìn trời”, “nhìn thẳng” được liệt kê đã thể hiện tư thế vững vàng, kiêu hãnh, bình tĩnh của người chiến sĩ.
+ Tư thế ung dung, dũng cảm, bất khuất của người chiến sĩ còn được thể hiện chân thực, rõ ràng qua hình ảnh hòa nhập với thiên nhiên.
3. Kết bài
Khái quát về hình tượng người lính qua hai bài thơ và nêu cảm nghĩ của bản thân.
2. Phân tích vẻ đẹp của người lính qua hai bài thơ Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính hay nhất:
Hình tượng người lính là một trong những hình ảnh trung tâm, tiêu biểu của văn học Việt Nam nói chung và văn học cách mạng nói riêng với nhiều tác giả, tác phẩm nổi tiếng. Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu và bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một số tác phẩm xuất sắc, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc về hình tượng người lính. Hai bài thơ ra đời vào hai thời điểm khác nhau trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ và gian khổ của dân tộc, nhưng hai nhà thơ đã xây dựng thành công hình ảnh người lính Bác Hồ với nhiều nét đẹp và phẩm chất đáng ngưỡng mộ.
Trước hết, hình ảnh người lính trong cả hai bài thơ đều là những con người giàu ý chí, nghị lực, chấp nhận, bất chấp và vượt qua mọi khó khăn bằng tinh thần lạc quan. Đọc “Đồng chí” của Chính Hữu, chắc chắn chúng ta sẽ không bao giờ quên hình ảnh những người lính thiếu thốn, sốt rét khủng khiếp trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược.
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày.
Là người trực tiếp tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp, có lẽ hơn ai hết, Chính Hữu hiểu rõ những gian khổ, thiếu thốn của đời người lính. Và rồi, bằng những miêu tả hiện thực và những hình ảnh thơ chọn lọc, nhà thơ đã tạo nên một bức tranh hiện thực sống động về người lính. Trước hết đó là những cơn sốt rét hoang dã khủng khiếp. Tác giả đã sử dụng lối viết hiện thực để tái hiện sự khắc nghiệt của bệnh sốt rét hoang dã, đó là những cơn “ớn lạnh”, những cơn sốt khiến cơ thể run lên, “vầng trán mồ hôi”. Đồng thời, tác giả cũng tái hiện chân thực và sâu sắc cuộc sống thiếu thốn, gian khổ của người chiến sĩ trong cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc bằng hình ảnh chân thực, gợi nhiều liên tưởng về “áo rách vai”, “quần có vài mảnh vá”, “chân không giày”. Dường như những thiếu thốn, gian khổ đó của người lính càng được nhấn mạnh và khắc họa rõ nét hơn khi đặt cạnh cái khắc nghiệt của núi rừng – cái lạnh của “Rừng hoang sương muối”. Nhưng dù cuộc sống còn nhiều khó khăn, thiếu thốn và sự khắc nghiệt của thiên nhiên, những người lính ấy vẫn tràn đầy tinh thần lạc quan. Hình ảnh “nụ cười buốt giá” là hình ảnh tiêu biểu nhất thể hiện thái độ lạc quan, bất chấp mọi thử thách, thử thách. Vì vậy, những người lính trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu, dù cuộc sống có vô số thiếu thốn, gian khổ nhưng vẫn luôn lạc quan, yêu đời.
Không chỉ trong bài thơ “Đồng chí”, những người lính trong “Bài thơ về tiểu đội xe không đeo kính” cũng luôn tràn đầy tinh thần lạc quan dù có nhiều thử thách trên đường ra trận.
Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi.
Hình ảnh “bụi” và “mưa” là những hình ảnh vừa mang ý nghĩa hiện thực, vừa mang tính biểu tượng cho những khó khăn của người chiến sĩ. Và rồi, trước những khó khăn đó trên chặng đường dài ra trận, các chiến sĩ đã vượt qua tất cả bằng niềm tin và sự lạc quan. Với việc sử dụng nghệ thuật lặp lại cấu trúc “không… ừ thì….” và sử dụng cấu trúc lặp “chưa cần…” và hình ảnh thơ độc đáo “phì phèo châm điếu thuốc”. “, “Gió lùa mau khô thôi” đã giúp chúng ta cảm nhận rõ ràng tinh thần lạc quan của những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Ngoài ra, trong cả hai bài thơ “Đồng chí” và “Bài thơ về tiểu đội xe không đeo kính” chúng ta thấy hình ảnh những người lính hiện lên với tinh thần đồng đội, tình đồng chí sâu sắc, cao đẹp. Trước hết, trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu, tình yêu đồng đội, đồng đội là sợi dây xuyên suốt toàn bộ tác phẩm và có lẽ vì thế mà trong bài thơ tình đồng chí, đồng đội hiện lên rõ nét. với nhiều biểu hiện khác nhau. Những người lính này luôn thấu hiểu tâm tư, tình cảm, cảm xúc của nhau – thấu hiểu cảnh ngộ, thấu hiểu nỗi nhớ quê hương luôn hiện hữu trong tâm hồn người lính.
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính.
Đồng thời, những người lính ấy luôn dấn thân, cùng nhau chịu đựng, chia sẻ mọi khó khăn, thiếu thốn của cuộc sống quân ngũ, trong sự khắc nghiệt của thiên nhiên và cả những cơn sốt rét kinh hoàng. Nhưng có lẽ, không chỉ dừng lại ở đó, tình đồng chí, tình đồng chí cao đẹp của những người lính còn được thể hiện rõ nét ở tình yêu thương, sự gắn bó và luôn sẵn sàng sẻ chia. Tất cả những cảm xúc đó được nén lại và thể hiện qua một bài thơ chứa đựng biết bao ý nghĩa:
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay
Hình ảnh “tay nắm lấy bàn tay” chứa đựng biết bao ý nghĩa. Những cái bắt tay đó tràn ngập yêu thương và trìu mến. Có vẻ như những người lính đó đang lợi dụng sự thiếu thốn vật chất để làm nổi bật sự giàu có về tinh thần của họ. Đồng thời, những cái bắt tay đó cũng là lời động viên chân thành để các chiến sĩ có thêm động lực vượt qua khó khăn, thử thách, là sự đồng cảm, mang đến biết bao ấm áp, yêu thương để truyền lại. Hãy tiếp thêm sức mạnh để họ bước đi trên cuộc hành trình với muôn vàn khó khăn. Chỉ một hình ảnh thôi cũng đủ thể hiện tình đồng chí thiêng liêng và có lẽ tình cảm ấy là nguồn động lực to lớn để tiếp sức cho các chiến sĩ trên con đường thực hiện nhiệm vụ.
Còn trong bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” tình đồng chí, đồng đội sâu sắc được thể hiện rõ nét qua những cái bắt tay chan chứa bao tình cảm.
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi.
Sau những chặng đường dài, vượt qua biết bao khó khăn, gian khổ, nguy hiểm, những người lính lái xe nhau đã trao nhau những cái bắt tay thật ý nghĩa, chan chứa bao tình đồng chí. Đó là cái bắt tay đầy cảm thông sâu sắc, là lời động viên thầm lặng, là sự sẻ chia những niềm vui, nỗi buồn, khó khăn trên chặng đường mà các chiến sĩ đã trải qua cùng nhau. Và có lẽ chỉ với hình ảnh “bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” nhưng cũng đủ để tác giả Phạm Tiến Duật cho chúng ta thấy được tình bạn thân thiết của những người lính.
Đồng thời, hình ảnh người lính trong cả hai bài thơ đều hiện lên với dáng vẻ ung dung, kiêu hãnh, bất khuất. Trong bài thơ “Đồng chí”, trên bối cảnh khắc nghiệt của thiên nhiên, hình ảnh người lính hiện lên với tâm trạng hết sức đặc biệt.
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Hình ảnh “chờ giặc tới” đã vẽ nên trước mắt chúng ta tư thế của những người lính, họ luôn luôn trong tư thế chủ động, hiên ngang, sẵn sàng chiến đấu với quân giặc, không chút lo lắng, sợ hãi.
Còn trong bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, tư thế ung dung, hiên ngang của những người lính được thể hiện rõ nét qua những câu thơ mở đầu bài thơ.
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Hai câu thơ đầu của tác giả tái hiện một cách chân thực hình ảnh những chiếc ô tô chứa đầy vết thương chiến tranh, một minh chứng điển hình cho sự khốc liệt của chiến tranh. Và rồi, trên bối cảnh của cuộc chiến tranh tàn khốc đó, hình ảnh những người lính hiện lên với dáng vẻ “ung dung” và điềm tĩnh của người lính. Đặc biệt, việc sử dụng các chiến thuật nêu trên “nhìn đất”, “nhìn trời”, “nhìn thẳng” đã thể hiện thế trận vững vàng, dũng cảm, bình tĩnh của người chiến sĩ. Họ không run sợ mà dám nhìn thẳng vào bom đạn của địch, vào con đường đầy khó khăn, thử thách, nguy hiểm phía trước. Ngoài ra, tư thế ung dung, dũng cảm, bất khuất của người chiến sĩ còn được thể hiện chân thực, rõ nét qua hình ảnh hoà nhập với thiên nhiên.
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái
Tóm lại, hai bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật đều khắc họa một cách chân thực và rõ nét vẻ đẹp của những người lính trong hai cuộc kháng chiến. lâu đời của dân tộc. Những người lính đó đã góp phần vẽ nên những trang sử hào hùng của dân tộc, của núi rừng và của đất nước.
3. Phân tích vẻ đẹp của người lính qua hai bài thơ Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính ngắn gọn:
Hình ảnh những người lính trong kháng chiến luôn là đề tài bất tận của thơ ca kháng chiến. Ở mỗi thời kỳ, họ xuất hiện với những vẻ đẹp khác nhau, lúc sôi nổi trẻ trung, lúc lại phóng khoáng và lãng mạn. Đến Chính Hữu, chúng ta bắt gặp hình ảnh người lính nông dân chân chất, giản dị trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Hình ảnh đó được thể hiện rất sâu sắc và cảm động trong bài thơ “Đồng chí” sáng tác năm 1948.
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.
Hình ảnh người lính xuất hiện trong bài thơ rất chân thực, chân thực đến mức chúng ta có cảm giác như vừa nhìn thấy bóng ai đó bước thẳng vào những trang thơ. Thành ngữ “nước mặn thì chua”, “đất cày lên sỏi” ám chỉ những vùng đất khô cằn, quanh năm bị nhiễm phèn, nhiễm mặn nên rất khó trồng trọt. Đây đều là những vùng nông thôn quanh năm lụi tàn, nghèo khó. Những người lính nơi chiến trường cũng là những đứa con của quê hương ấy, họ đều là những người nông dân cần cù, chăm chỉ, đôi bàn tay lấm lem nên cách họ tâm sự, trò chuyện với nhau đều rất mộc mạc, mộc mạc, đúng chất thiên nhiên. của nông dân. Tưởng chừng hai con người ở hai vùng quê nghèo đó sẽ không bao giờ gặp nhau nhưng chiến tranh nổ ra, những người lính phải rời quê hương đi bảo vệ quê hương, đất nước. Họ có chung mục đích và lý tưởng chiến đấu, điều đó đã đưa họ đến đây. Họ đã trở thành những người bạn, đồng chí, đồng chí cùng nhau chia sẻ niềm vui, khó khăn.
“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!”.
Hình ảnh người lính còn hiện lên với vẻ đẹp của đời sống tinh thần, tình cảm, sự thấu hiểu tâm tư, tình cảm của nhau và sự chia sẻ những khó khăn, thiếu thốn. Các bạn đều là những người lính tạm gác lại tình cảm cá nhân, để lắng nghe tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, dũng cảm ra đi vì sự nghiệp vĩ đại, bỏ lại sau lưng một mảnh đất quê hương với biết bao ưu phiền.
“Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”.
Hình ảnh “gian nhà không” là hình ảnh đọng lại khá lâu trong tâm trí những người lính ấy và cũng vô cùng ám ảnh trong tâm trí người đọc. Đó là sự nghèo khó của miền quê hay sự trống rỗng trong lòng những người ở lại? “Giếng nước, cây đa” vốn là những đồ vật vô tri nay đã được nhân cách hóa để thể hiện nỗi nhớ sâu sắc về quê hương thân yêu đối với những người lính đã ra đi khó lòng trở về. . Ngoài ra, giếng nước và cây đa còn được dùng để chỉ những người ở lại, vợ chờ chồng, mẹ chờ con, luôn nhớ nhung ngóng ngày bộ đội trở về. Vì sao những người lính ra chiến trường mới thấu hiểu hết nỗi lòng quê hương, gia đình? Bởi chính người lính cũng nhớ họ sâu sắc, một nỗi nhớ hai chiều, nhớ quê hương. là con đường để họ vượt qua khó khăn. Đó là vẻ đẹp của tâm hồn và những cảm xúc chứa đựng trong những người lính đó.
Chiến tranh diễn ra ác liệt, người lính không chỉ phải đối mặt với mưa bom đạn của giặc, ở đây Chính Hữu đưa chúng ta đến với cuộc sống đời thường của người lính với những gian khổ, bệnh tật dày vò. , thiếu mọi nhu yếu phẩm hàng ngày, quần áo, thuốc men, giày dép. Nhưng họ vẫn toát lên tinh thần lạc quan, mỉm cười cùng nhau vượt qua thử thách, khó khăn.
“Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”.
Cái nắm tay đó không chỉ là cái nắm tay đơn thuần mà là cái nắm tay để truyền cho nhau hơi ấm yêu thương, để cho nhau sức mạnh ý chí để động viên nhau, cùng nhau vượt qua khó khăn, thiếu thốn. Ở đây chúng ta thấy một hình ảnh người lính rất cảm động và ấm áp, đó là sức mạnh của tình yêu thương, của sự sẻ chia gian khổ, vất vả, thiếu thốn, hành động nắm tay đó cũng không khác gì. “Đưa than sưởi ấm trong ngày tuyết rơi”, có thể chưa đủ sưởi ấm thân xác nhưng cũng đủ sưởi ấm trái tim họ.
Hình ảnh những người lính còn hiện lên với vẻ đẹp của sự đoàn kết, yêu thương, sát cánh cùng nhau đánh giặc. Trong không gian tối tăm của rừng hoang, lớp sương muối ấy vẫn sáng lên tượng đài vĩnh cửu của những người chiến sĩ sát cánh bên nhau trong tư thế chủ động tấn công “chờ giặc tới”, kết hợp hài hòa giữa hình ảnh súng ống. và mặt trăng. Súng tượng trưng cho hiện thực chiến tranh khốc liệt, gian khổ, mặt trăng tượng trưng cho hòa bình, khát vọng về một ngày mai hòa bình. “Đầu súng trăng treo” còn tượng trưng cho sự hòa hợp của tâm hồn người lính giữa người lính và nhà thơ, giữa hiện tại và ước mơ. Tâm hồn người lính vẫn rất đẹp, luôn yêu đời và tin vào một ngày mai bình yên.
Bài thơ “Đồng chí” đã xây dựng một tượng đài bất diệt về hình ảnh những người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Hình ảnh đó đẹp và sống động đến nỗi cho đến hôm nay và mai sau, mỗi khi nhắc đến hình ảnh người chiến sĩ trong kháng chiến, tượng đài đó sẽ luôn hiện lên trong tâm trí người đọc.