Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản trực tiếp xâm hại tới sự hoạt động đúng đắn, uy tín của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và xâm hại đến quan hệ sở hữu (sở hữu của cá nhân, tổ chức).
Mục lục bài viết
1. Khách thể của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản:
Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản nằm trong chương quy định về các tội phạm về chức vụ. Vậy nên khách thể của tội phạm này là hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức; làm cho cơ quan, tổ chức bị suy yếu, mất uy tín, mất lòng tin của nhân dân vào chính quyền; cao hơn là chính thể bị sụp đổ. Bên cạnh đó, khách thể của loại tội phạm này cũng gồm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức cụ thể là chế độ sở hữu tài sản. Nói cách khác, Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản trực tiếp xâm hại hai quan hệ xã hội đó là: (i) sự hoạt động đúng đắn, uy tín của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và (ii) xâm hại đến quan hệ sở hữu (sở hữu của cá nhân, tổ chức).
Thứ nhất, sự hoạt động đúng đắn, uy tín của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội
Với bản chất là tội phạm về chức vụ, quyền hạn, tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản cũng như các tội về tham nhũng và chức vụ, quyền hạn khác có khách thể là hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức. Việc xâm phạm, phá hủy tính đúng đắn trong hoạt động của các cá nhân, cơ quan, tổ chức gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động của bộ máy nhà nước, làm tha hóa, suy thoái tư tưởng, đạo đức của đội ngũ cán bộ công chức, Đồng thời làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với hệ thống các cơ quan nhà nước, đối với sự lãnh đạo của Đảng. Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản tác động đến hoạt động đúng đắn và uy tín của cơ quan nhà nước theo nhiều cách khác nhau, nhưng trước hết, xuất phát từ bản chất “vượt quá” phạm vi thẩm quyền khi thực hiện hành vi này các hiện tượng quan liêu, lạm quyền sẽ bộc lộ, thái độ nhũng nhiễu của đội ngũ cán bộ (đặc biệt là cán bộ có chức vụ, quyền hạn lớn) suy thoái về tác phong, đạo đức từ đó cũng thể hiện rõ. Cũng xuất phát từ thái độ nhũng nhiễu, đòi hỏi hoạt động của cơ quan nhà nước trở nên trì trệ kém hiệu quả. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự tín nhiệm của nhân dân với các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội. Mặt khác, với cương vị là “Cán bộ là đầy tớ của nhân dân”, “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” là những cá nhân được đào tạo chuyên môn cao và hiểu biết pháp luật; đồng thời lại là đối tượng vi phạm pháp luật và nghiêm trọng hơn là thực hiện tội phạm, điều này gây ra những tác động tiêu cực, kéo giãn mối quan hệ khăng khít của nhà nước và nhân dân.
Thứ hai, xâm hại đến quan hệ sở hữu (sở hữu của cá nhân, tổ chức)
Bên cạnh việc xâm phạm về tính đúng đắn trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản còn xâm phạm đến quan hệ sở hữu tài sản của cá nhân, tổ chức. Bởi mục đích của hành vi phạm tội là chiếm đoạt tài sản của người khác, thu về trục lợi cho bản thân hoặc người thân. Hành lạm dụng chức vụ, quyền hạn chỉ là công cụ, phương thức để người phạm tội có thể dễ dàng thực hiện hành vi phạm tội của mình.
Yếu tố thôi thúc tội phạm thực hiện ở đây là động cơ về tài sản. Hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với động cơ hướng tới lợi ích vật chất, tài sản bất chấp những chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp và quy định pháp luật. Tuy nhiên, cần lưu ý lợi ích vật chất, hay tài sản cụ thể trong trường hợp là khách thể của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản được xác định không phải là tài sản của nhà nước.
Đối tượng tác động và mục đích của tội phạm này là quan hệ sở hữu, là tài sản của người khác. Trong BLHS năm 2015 chưa quy định cụ thể những tài sản đó thuộc loại nào tuy nhiên, căn cứ Điều 105 BLDS 2015 thì “1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. 2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai”. Như vậy, tài sản ở đây bao gồm tiền với tư cách là tài sản của công dân và các đối tượng vật chất thuộc quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt của người khác. Tuy chức vụ, quyền hạn chỉ là công cụ, phương tiện để chủ thể lợi dụng nhằm đạt được mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác nhưng hành vi này đã xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức.
2. Mặt khách quan của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản:
Mặt khách quan của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác bao gồm hành vi khách quan và hậu quả của tội phạm, đây là các dấu hiệu thuộc mặt khách quan đồng thời là những dấu hiệu rất quan trọng để xác định hành vi phạm tội cũng như để phân biệt tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác với các tội phạm khác.
– Hành vi khách quan
Trước hết, chủ thể phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác, phải là người có chức vụ, quyền hạn và họ có hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn được giao của mình.
Lạm dụng chức vụ, quyền hạn là hành vi vượt quá quyền hạn quy định của mình, làm trái công vụ để chiếm đoạt tài sản của người khác. Thông qua thủ đoạn lạm dụng chức vụ, quyền hạn, chủ thể của hành vi phạm tội thực hiện mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác. Để chiếm đoạt tài sản của người khác, người phạm tội có thể thực hiện tội phạm bằng nhiều thủ đoạn khác nhau. Trong thực tế các thủ đoạn này là lạm dụng chức vụ, quyền hạn để uy hiếp tinh thần hoặc lừa dối hoặc lạm dụng tín nhiệm.
Theo đó, người phạm tội sử dụng chức vụ, quyền hạn như một công cụ, phương tiện để thực hiện hành vi vượt quá chức năng, nhiệm vụ được giao, thực hiện những hành vi đe dọa, uy hiếp hoặc các thủ đoạn khác đến chủ sở hữu tài sản khiến chủ sở hữu tài sản hoang mang, lo lắng, buộc chủ tài sản phải giao tài sản cho người phạm tội. Người bị hại do lo sợ rằng người phạm tội sẽ gây thiệt hại cho mình nên đã giao tài sản ra để cho người có chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản.
Người phạm tội sử dụng chức vụ, quyền hạn như một công cụ, phương tiện để thực hiện hành vi vượt quá chức trách của mình tiến hành những hành vi lừa đảo, gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác, hoặc để tạo tín nhiệm đối với người khác và sử dụng thủ đoạn lạm dụng tín nhiệm để chiếm đoạt tài sản của họ.
Theo đó, mục đích chính của hành vi phạm tội là nhằm chiếm đoạt tài sản tuy nhiên yếu tố chức vụ, quyền hạn là yếu tố quan trọng và không thể thiếu để phân biệt tội phạm này với các tội phạm khác. Yếu tố chức vụ, quyền hạn chỉ là điều kiện cần, là công cụ để chủ thể tội phạm thực hiện hành vi phạm tội của mình.
Ngoài ra, theo quy định của pháp luật, “người nào lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác...” tức là khi chủ thể phải làm dụng chức vụ, quyền hạn mà họ được giao để thực hiện hành vi phạm tội thì mới bị truy cứu về tội danh này. Vậy nếu họ không lạm dụng mà chỉ lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản của người khác thì có phạm tội này không ? Nếu lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản do mình có trách nhiệm quản lý là hành vi tham ô, nhưng nếu lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản do người khác quản lý thì có phạm tội không, nếu có thì đó là tội gì?
Tuy nhiên, trong thực tế việc phân định rạch ròi giới hạn giữa lợi dụng và lạm dụng chức vụ, quyền hạn vô cùng khó khăn. Giới hạn này là phạm vi, nội dung, chức năng, nhiệm vụ được pháp luật quy định cụ thể cho từng chức vụ. Còn hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn và đã sử dụng chức vụ, quyền hạn đó một cách trái phép nhằm mục đích mà họ đặt ra. Nếu không sử dụng chức vụ, quyền hạn mà mình có thì không thể đạt được mục đích của mình.
Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản phải do chủ thể đặc biệt là người có chức vụ, quyền hạn thực hiện bằng phương thức sử dụng vượt quá giới hạn quyền lực của mình để chiếm đoạt tài sản của người khác. Nếu không có hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác, mà chỉ gây thiệt hại đến lợi ích của người khác thì tùy trường hợp mà người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ theo Điều 357 BLHS; tội nhận hối lộ theo Điều 354 BLHS; .... Ngoài ra cần lưu ý tình tiết “chiếm đoạt tài sản của người khác” ở đây không chỉ riêng tài sản của một cá nhân mà bao gồm cả tài sản của Nhà nước, của tổ chức, cơ quan.
Mặc dù điều văn của điều luật quy định: “chiếm đoạt tài sản của người khác” nhưng không vì thế mà cho rằng đó chỉ là tài sản của công dân, mà phải hiểu người khác bao gồm: Nhà nước, tổ chức và mọi công dân. Như vậy, người phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác không chỉ bao gồm tài sản của công dân mà bao gồm cả tài sản của Nhà nước, của tổ chức.
– Hậu quả
Tương tự các tội phạm về chức vụ khác, tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản tác động tiêu cực tới hoạt động đúng đắn của các cơ quan, bộ máy nhà nước, ngoài ra còn gây thiệt hại về tài sản cho người khác.
Trong BLHS năm 2015, tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản được nhà làm luật quy định giá trị tài sản mà người phạm tội chiếm đoạt để làm ranh giới phân biệt tính chất mức độ của hành vi, phân biệt tội phạm với hành vi vi phạm pháp luật. theo quy định tại khoản 1 Điều 355 BLHS năm 2015 quy định: “Người nào lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 06 năm:
a) Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục 1 Chương này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”. Như vậy ranh giới phân biệt hành vi vi phạm pháp luật với tội phạm trong quy định này là 2.000.000 đồng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, dù chưa vượt qua ranh giới này nhưng chủ thể phạm tội vẫn bị xử lý hình sự theo quy định tại điểm a, b khoản 1 Điều này. Đồng thời BLHS năm 2015 đã bỏ đi tình tiết định tính gây hậu quả nghiêm trọng”. Việc quy định cụ thể những trường hợp như vậy giúp hoạt động áp dụng pháp luật vào thực tiễn và đấu tranh, phòng chống tội phạm này đạt hiệu quả cao hơn.
Ngoài ra, cũng cần lưu ý đến mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản. Cụ thể:
Động cơ chiếm đoạt tài sản là yếu tố thôi thúc và là đích đến mong muốn của tội phạm này, hành vi khách quan là phương tiện xác định tội phạm hoàn thành hay không, nói cách khác hành vi khách quan phải diễn ra trước hậu quả xét về mặt thời gian. Đồng thời, Trong bản thân hành vi khách quan phải chứa đựng khả năng thực tế, mầm mống nội tại, nguyên nhân trực tiếp làm phát sinh hậu quả; và đặc biệt, hậu quả xảy ra phải là thực hiện hóa khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả của hành vi khách quan.
3. Chủ thể của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản:
Đối với nhóm tội về chức vụ nói chung và tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản nói chung, dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm là một trong những dấu hiệu quan trọng để xác định hành vi phạm tội cũng như phân biệt giữa tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản với các tội phạm khác có tính chất chiếm đoạt khác. Chủ thể thực hiện hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản là chủ thể đặc biệt, chủ thể này buộc phải là người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan, tổ chức. Nếu các chủ thể này không có chức vụ, quyền hạn thì không thể là chủ thể của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà sẽ trở thành chủ thể của một số tội phạm có tính chiếm đoạt khác như: lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản,...
Khái niệm về người có chức vụ, quyền hạn được quy định tại khoản 2 BLHS năm 2015: “Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một nhiệm vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ”. Những chủ thể có chức vụ, quyền hạn này có đầy đủ năng lực hành vi và năng lực pháp luật, họ có thể nhận thức được trách nhiệm, chức trách của bản thân trong việc sử dụng chức vụ, quyền hạn được giao. Họ có thể ý thức được tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm, ý thức được hậu quả, tác hại của việc sử dụng chức vụ, quyền hạn như một công cụ, phương tiện để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác. Họ hoàn toàn nhận thức được thiệt hại về vật chất và tinh thần cho xã hội từ hành vi phạm tội của mình, vừa xâm phạm đến quyền tài sản của người khác, vừa ảnh hưởng đến uy tín, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức. Tuy nhiên, do suy thoái về tư tưởng, đạo đức, bị những ham muốn vật chất thúc đẩy các chủ thể đã thực hiện hành vi lạm dụng, vượt quá giới hạn phạm vi quyền hạn của mình để chiếm đoạt tài sản của người khác cho mình hoặc những người thân, có quan hệ với mình.
Bên cạnh chủ thể đặc biệt trực tiếp thực hiện hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản, trong trường hợp đồng phạm, những người không có chức vụ, quyền hạn cũng có thể trở thành chủ thể của loại tội phạm này. Các chủ thể không có chức vụ, quyền hạn nhưng giữ vai trò cầm đầu, chỉ đạo, giúp sức, tạo điều kiện thuận lợi cho chủ thể trực tiếp thực hiện hành vi vi phạm vẫn là chủ thể của tội phạm với vai trò tương ứng trong đồng phạm. Trong thực tiễn xử lý tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản, việc xác định có hay không đồng phạm và vị trí vai trò của các đồng phạm trong vụ án đóng vai trò hết sức quan trọng góp phần làm sáng tỏ các tình tiết vụ án, đưa ra các biện pháp xử lý phù hợp, tránh làm oan sai, bỏ lọt tội phạm.
Dù là người có chức vụ, quyền hạn trực tiếp thực hiện hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản hay người đồng phạm khác trong các vụ án thì họ cũng phải thỏa mãn các điều kiện về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 12 BLHS năm 2015. Bên cạnh đó, trong trường hợp đồng phạm, ngoài việc xác định độ tuổi cần xác định đối tượng đó có thỏa mãn điều kiện về năng lực trách nhiệm hình sự hay không?
Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm là cơ sở quan trọng để xác định hành vi chiếm đoạt tài sản có phải là hành vi phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản hay không bởi nếu chủ thể trực tiếp thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản không phải là người có chức vụ, quyền hạn thì chưa thể xác định đối tượng phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản.
4. Mặt chủ quan của tội phạm:
Mặt chủ quan của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản là những yếu tố bên trong như lỗi, động cơ, mục đích tác động đến hành vi phạm tội của chủ thể. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của người là tội có tính chất chiếm đoạt, mục đích của hành vi phạm tội là chiếm đoạt tài sản của người khác và mục đích này luôn có trước khi thực hiện hành vi phạm tội. Chủ thể thực hiện hành vi phạm tội luôn mang lỗi cố ý trực tiếp. Người có hành vi phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.
Bản thân người thực hiện tội phạm, ngay từ khi nảy sinh ý định phạm tội đã nhận thức được rõ ràng về những thiệt hại về tài sản, đồng thời họ cũng hoàn toàn có đủ khả năng nhận thức rằng hành vi sử dụng chức vụ, quyền hạn được giao của mình như một công cụ, phương tiện để làm quà chức trách, nhiệm vụ nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác là họ đang trực tiếp xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức. Điều này đã trực tiếp ảnh hưởng đến chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, làm giảm uy tín, mất lòng tin của nhân dân đối với bộ máy chính quyền. Mặc dù nhận thức đầy đủ những chủ thể phạm tội vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác.