Phan Châu Trinh là một tấm gương sáng trong phong trào Duy Tân đầu thế kỷ 20. Ông là một nhà nho yêu nước có nhiều suy nghĩ tiến bộ. Bài viết dưới đây là câu trả lời cho câu hỏi Phan Châu Trinh là ai? Cuộc đời và sự nghiệp của ông? Cùng tham khảo nhé.
Mục lục bài viết
1. Tìm hiểu về cuộc đời Phan Châu Trinh:
Phan Châu Trinh ( sinh năm 1872 – mất năm 1926, một số tài liệu ghi là Phan Chu Trinh), bút danh Tây Hồ, còn gọi là Hy Mã, sinh tại làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kì (nay là xã Tam Lộc, huyện Phú Ninh), tỉnh Quảng Nam. Ông là một nhà thơ, nhà văn, nhà hoạt động chính trị yêu nước vĩ đại và có tư tưởng dân chủ sớm nhất ở Việt Nam.
Mẹ ông là bà Lê Thị Trung, mất khi ông mới 6 tuổi. Cha ông là Phan Văn Bình, làm một chức quan võ nhỏ, nên ngay từ khi còn nhỏ ông đã tiếp nối sự nghiệp gia đình và học võ.
Năm 1900, ông đỗ Cử nhân, năm 1901, ông đỗ Phó Bảng, được bổ nhiệm làm thừa biện bộ Lễ. Ông là một trong những người tiếp thu tư tưởng cách mạng tư sản phương Tây thông qua việc đọc sách mới (sách của các nhà tư tưởng trong thời kỳ cách mạng tư sản ở phương Tây được người Trung Quốc dịch sang tiếng Hán).
Sau khi làm quan ở triều đình Huế một thời gian ngắn, ông từ chức rồi trở về, bắt đầu tiếp xúc với nhiều học giả yêu nước đương thời. Ông sang gặp Hoàng Hoa Thám ở Yên Thế, năm 1905 sang Trung Quốc, rồi Nhật Bản và gặp Phan Bội Châu, nhưng hai người không thống nhất quan điểm. Ông hoạt động công khai và chủ trương để thay đổi chế độ quân chủ, thực hiện dân quyền, khai sáng dân chúng, phát triển công nghiệp (tức là các ngành nghề phát triển sản xuất xã hội), tạm thời áp dụng chính sách khai hóa của thực dân Pháp.
Năm 1906, ông gửi thư cho Toàn quyền Pháp ở Đông Dương, tố cáo những tệ nạn trong nước do giai cấp thống trị là quan lại gây ra và được chính quyền Đông Dương dung túng. Ông sang diễn thuyết tại trường Đông Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội và một số chi nhánh của trường ở nơi khác.
Năm 1908, Phan Châu Trinh bị triều đình Huế buộc tội khởi xướng phong trào chống thuế ở Trung Bộ nên ông bị bắt giam cùng nhiều nhà yêu nước khác và bị đày ra Côn Đảo. Đến năm 1911, nhờ có sự can thiệp và giúp đỡ của Hội nhân quyền ở Pháp, ông đã được trả tự do sớm. Sau đó, ông sang Pháp với ý định lợi dụng Hội nhân quyền Pháp đòi chính quyền thực dân ở Đông Dương phải tiến hành thực hiện cải cách chính trị.
Trong chiến tranh thế giới thứ nhất, ông bị tình nghi là thông đồng với Đức nên bị bắt nhiều tháng.
Năm 1922, vua Khải Định sang Pháp, ông gửi bản “Thất điều trần” để buộc tội nhà vua. Khi còn ở Pháp, ông thân với Bác Hồ lúc này được gọi là Nguyễn Ái Quốc.
Năm 1925, Phan Châu Trinh từ Pháp trở về, định ra Huế gặp Phan Bội Châu, người vừa được trả tự do và đang bị chính quyền thực dân giam giữ. Nhưng chưa kịp đi thì ông đã bị ốm và ngày 24 tháng 3 năm 1926, ông qua đời tại Sài Gòn. Tang lễ trên toàn quốc diễn ra nhằm truy điệu Phan Châu Trinh, ông nhanh chóng trở thành biểu tượng của lòng yêu nước đối với dân tộc lúc bấy giờ.
Phan Bội Châu khi nhận được tin ông mất, đã biên tập một bài điếu văn bày tỏ lòng tiếc nuối và đọc vào ngày nhân dân Huế tổ chức lễ tưởng niệm ông.
Qua tóm tắt cuộc đời Phan Châu Trinh ở trên, có thể thấy ông là một học giả yêu nước, giương cao ngọn cờ dân chủ và cải cách xã hội. Ông đã đi nhiều nước, nhanh chóng tiếp thu những tư tưởng tiến bộ, và là một nhà lãnh đạo tài ba của đất nước bằng cách nâng cao dân trí và dân quyền.
Phan Châu Trinh đã vạch trần chế độ phong kiến và quan lại đang sụp đổ, đòi hỏi Pháp phải sửa đổi chính sách cai trị thuộc địa của mình. Chịu ảnh hưởng từ những tư tưởng dân chủ của ông, nhiều phong trào cải cách xã hội thời bấy giờ đã nổi lên mạnh mẽ ở miền Bắc và miền Trung, như việc thành lập trường Đông Kinh Nghĩa Thục kiểu mới ở Hà Nội, và phong trào Duy Tân (bỏ cũ theo mới) kêu gọi đổi mới phong tục, lối sống ở miền Trung.
Những tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh thể hiện tinh thần yêu nước sâu sắc của dân tộc, nhưng việc ông dùng chủ trương cải cách để cứu nước bị coi là có phần lạc hậu so với thời đại.
2. Sự nghiệp của Phan Châu Trinh:
Ngoài các tác phẩm chính trị nổi tiếng với lập luận đanh thép, Phan Châu Trinh còn viết thơ, các tác phẩm văn học của ông, đầy tinh thần yêu nước và dân chủ, đã góp phần làm dấy lên các phong trào cách mạng ở Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ 20.
Các tác phẩm của ông bao gồm: “Thư gửi chính phủ Đông Dương” (1906 Hán văn), “Tỉnh quốc hồn ca I” (1907), “Thơ văn làm ở Côn Lôn”, “Thư gửi hội Nhân quyền” (1911), “Xăng-tê thi tập” (1915), “Tây Hồ thi tập” (Hán văn và quốc âm), “Giai nhân kì ngộ” (truyện thơ), “Thất điều trần” (1922, Hán văn), “Tỉnh quốc hồ ca II” (1922), “Thư gửi anh Đông” (1924), “Luân lý và đạo đức Đông Tây” (1925), “Quân trị và dân trị” (1925).
Giới văn học đã sưu tầm, tuyển chọn tác phẩm của Phan Châu Trinh, qua đó giúp bạn hiểu rõ hơn về lòng yêu nước cũng như tinh thần dân chủ cháy bỏng trong từng tác phẩm của ông.
3. Quan điểm sáng tác của Phan Châu Trinh:
– Phan Châu trinh cũng là một thành tựu của quá trình vận động tư tưởng Việt Nam mà chúng ta nhận thấy trong phong trào Duy Tân Việt Nam đầu thế kỷ XX, như một sự khởi đầu cho sự phát triển của dân tộc trên con đường bảo vệ và xây dựng đất nước. (
– Theo ông, nhiệm vụ cấp bách đối với nhân dân Việt Nam là:
Khai dân trí: từ bỏ lối học vẹt, mở trường dạy chữ quốc ngữ, kiến thức khoa học thực tiễn, xóa bỏ hủ tục xa hoa.
Chấn dân khí: Đánh thức tinh thần tự lực, mọi người đều giác ngộ để hưởng quyền lợi, thoát khỏi sự độc quyền.
Hậu dân sinh: phát triển kinh tế, cho nhân dân khai hoang làm vườn, lập hội buôn bán, sản xuất hàng hóa trong nước…
– Phan Châu Trinh yêu cầu chính quyền thực dân sửa đổi chính sách hành chính hiện hành để có thể giúp nhân dân Việt Nam từng bước văn minh. Ông đề cao khẩu hiệu “Tự lực khai hóa”, vận động những người cùng chí hướng để thức tỉnh dân tộc, tuyên truyền tư tưởng về quyền công dân.
– Phan Châu Trinh đánh giá cao công lao của Phan Bội Châu trong việc vận động một số học sinh đi du học và phổ biến tài liệu tuyên truyền giáo dục quốc gia trong nước. Song, ông phản đối hành động bạo lực và tư tưởng bảo thủ của Phan Bội Châu.
– Trong bức thư gửi Toàn quyền Beau ngày 15 tháng 8 năm 1906, Phan Châu Trinh chỉ trích chính quyền Pháp không quan tâm đến việc mở rộng khai thác hóa cho dân mà chỉ quan tâm đến việc thu thêm thuế, khiến nhân dân vốn đã khốn khổ lại càng khốn khổ hơn. Ông đề nghị chính quyền Đông Dương nên thay đổi thái độ đối với nhân dân miền Nam, cải cách mọi chính sách cai trị. Bức thư đã gây được tiếng vang lớn trong nhân dân, công khai bày tỏ sự bất bình của nhân dân và khẳng định quyết tâm cải thiện tình hình hiện tại của đất nước.
– Ông cũng viết một bản điều trần về cuộc đấu tranh chống thuế năm 1908 ở Trung Bộ Việt Nam gửi cho Liên minh Nhân quyền.
– Ông viết Pháp-Việt liên hiệp hậu chi Tân Việt Nam, lập luận rằng không thể nhìn Việt Nam một cách biệt lập mà phải đặt trong mối quan hệ với thế giới, trước hết là với các cường quốc và với Pháp, cũng như không thể chỉ xem xét trong hiện tại mà phải xem xét lịch sử quá khứ và phải nghiên cứu các xu hướng phát triển trong tương lai, tạo ra một cách nhìn nhận mọi thứ toàn diện.