Hệ thống hóa pháp luật là hoạt động nhằm để sắp xếp, hoàn thiện những quy phạm pháp luật, các văn bản quy phạm pháp luật theo một trật tự nhất định nhằm để đạt được những mục đích đã đề ra. Vậy hãy phân biệt các hình thức hệ thống hóa pháp luật hiện nay?
Mục lục bài viết
1. Phân biệt các hình thức hệ thống hóa pháp luật hiện nay:
1.1. Hệ thống hóa pháp luật là gì?
Hệ thống pháp luật là tổng thể các quy phạm pháp luật, những nguyên tắc, định hướng và mục đích của pháp luật có mối liên hệ nội tại và thống nhất với nhau, chúng được phân định thành các ngành luật, các chế định pháp luật, được thể hiện trong những hình thức pháp luật. Ở Việt Nam hiện nay, hệ thống pháp luật được thể hiện trong những tập quán pháp và các văn bản quy phạm pháp luật.
Có thể hiểu rằng, hệ thống hóa pháp luật là hoạt động nhằm để sắp xếp, hoàn thiện những quy phạm pháp luật, các văn bản quy phạm pháp luật theo một trật tự nhất định nhằm để đạt được những mục đích đã đề ra. Điều 170 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 quy định cơ quan nhà nước trong phạm vi các nhiệm vụ, quyền hạn của mình phải có trách nhiệm rà soát, hệ thống hóa những văn bản quy phạm pháp luật; nếu như phát hiện có quy định trái pháp luật, mâu thuẫn, chồng chéo, hết hiệu lực hoặc là không còn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế – xã hội thì tự mình hoặc phải kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền kịp thời đình chỉ việc thi hành, bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung, ban hành văn các bản mới hoặc thay thế văn bản quy phạm pháp luật. Qua đó, nó đã xác định được các mục đích của việc phải hệ thống hóa pháp luật. Thêm nữa, việc hệ thống hóa pháp luật còn phục vụ đắc lực cho việc tuyên truyền, phổ biến và lưu trữ các văn bản quy phạm pháp luật.
1.2. Phân biệt các hình thức hệ thống hóa pháp luật hiện nay:
Có hai hình thức hệ thống hóa pháp luật, đó là tập hợp hóa và pháp điển hóa.
Phân biệt các hình thức hệ thống hóa pháp luật như sau:
Tiêu chí | Tập hợp hóa | Pháp điển hóa |
Khái niệm | Tập hợp hóa là hình thức thu thập và sắp xếp những văn bản pháp quy theo từng vấn đề (đó là theo cơ quan ban hành, theo thời gian ban hành, theo cấp độ hiệu lực pháp lý…) thành tập luật lệ hiện hành | Pháp điển hóa là hoạt động của những cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong đó không những là tập hợp các văn bản đã có theo một trình tự nhất định, loại bỏ các quy phạm lỗi thời, mâu thuẫn mà còn chế định thêm các quy phạm mới để thay thế cho những quy phạm đã bị loại bỏ và khắc phục những chỗ trống đã được phát hiện trong quá trình tập hợp văn bản, sửa đổi những quy phạm hiện hành, nâng cao hiệu lực pháp lý của chúng |
Đặc trưng | – Hình thức sắp xếp này không làm thay đổi về phạm vi hiệu lực của các văn bản đó.Trong tập luật lệ này, những quy phạm, các chương, điều hoặc là toàn bộ văn bản pháp quy được trích dẫn hoặc được đưa vào toàn bộ theo nguyên bản. – Sự liên kết các quy phạm được hệ thống hóa theo vấn đề sẽ không tạo nên chế định pháp lý mới mà chỉ là dừng lại ở việc tập hợp hóa những văn bản theo vấn đề đó. Toàn bộ cấu trúc hình thức của mỗi một quy phạm, mỗi chương, điều trong bản gốc quy phạm nào đó sẽ được đánh số thứ tự chương, điều, mục, khoản, điểm như thế nào thì ở trong tập luật lệ hiện hành vẫn giữ nguyên về thứ tự đó như trong bản gốc. – Hình thức này không làm thay đổi về phần nội dung, không bổ sung các quy định mới mà chỉ nhằm để loại bỏ những quy phạm đã hết hiệu lực hoặc rõ ràng là có mâu thuẫn với văn bản của cấp trên. – Việc thực hiện hệ thống hóa này có thể do bất cứ một cá nhân ,tổ chức hoặc cơ quan Nhà nước thực hiện | – Loại bỏ các quy phạm lỗi thời, mâu thuẫn – Chế định thêm những quy phạm mới để thay thế cho những quy phạm đã bị loại bỏ
|
Sự tác động đến nội dung và hình thức của quy phạm pháp luật | Việc tập hợp hoá pháp luật không làm thay đổi về nội dung và hình thức của quy phạm pháp luật và các văn bản quy phạm pháp luật được thu thập, không làm xuất hiện những quy phạm pháp luật, chế định pháp luật và những khái niệm pháp lý mới, bởi vì những quy phạm pháp luật và những văn bản quy phạm pháp luật khi đưa vào tập hợp phải được sao chép nguyên văn. | Nếu xây dựng bộ pháp điển theo chủ đề (gọi pháp điển hóa về hình thức) thì việc pháp điển hóa sẽ không làm thay đối về nội dung và hình thức của những quy phạm pháp luật và những văn bản quy phạm pháp luật được tập hợp. Nếu như xây dựng bộ luật mới (được gọi là pháp điển hóa về nội dung) thì việc pháp điển hoá sẽ có thể làm thay đổi về nội dung và hình thức của những quy phạm pháp luật và những văn bản quy phạm pháp luật được thu thập, có thể là làm xuất hiện thêm những quy phạm pháp luật, chế định pháp luật và những khái niệm pháp lý mới. |
Thủ tục tiến hành | Việc tập hợp hoá pháp luật sẽ có thể được tiến hành theo nhiều các tiêu chí khác nhau: –Theo thời gian ban hành văn bản, –Theo giá trị pháp lý của văn bản, –Theo đối tượng điều chỉnh của văn bản… | Việc pháp điển hoá sẽ chỉ được tiến hành theo đối tượng điều chỉnh của quy phạm pháp luật và những văn bản quy phạm pháp luật. Nếu như xây dựng bộ pháp điển theo chủ đề thì còn sẽ được tiến hành theo giá trị pháp lý của các văn bản hoặc quy phạm. |
Kết quả | Kết quả cuối cùng của việc tập hợp hoá pháp luật chính là làm hình thành nên một tập hợp những quy định của pháp luật nên là chủ thể tiến hành tập hợp hoá pháp luật có thể sẽ là bất kỳ Tổ chức, cá nhân nào ở trong xã hội song chủ yếu là những cơ quan nhà nước và các chuyên gia pháp luật. | Kết quả của công việc pháp điển chính là một văn bản quy phạm pháp luật ra đời. Đó chính là một bộ luật tương ứng với một ngành luật nhất định hay là một bản điều lệ tập hợp những quy phạm cho một lĩnh vực nhất định, trong đó những kết quả của nó là một văn bản pháp luật mới hoặc là có hiệu lực pháp lý cao hơn hoặc rộng hơn về phạm vi điều chỉnh, được hoàn chỉnh hơn về kỹ thuật lập pháp hoặc đồng thời là đạt được tất cả các yêu cầu đó. |
2. Mục đích của hệ thống hóa pháp luật:
Hệ thống hóa pháp luật nhằm mục đích sau:
– Thứ nhất, tạo ra một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật cân đối, hoàn chỉnh và thống nhất, trong đó vai trò của những đạo luật ngày càng có vai trò quan trọng đối với sự điều chỉnh các quan hệ xã hội.
– Thứ hai, khắc phục tình trạng lỗi thời, mâu thuẫn và những lỗ hổng của hệ thống pháp luật.
– Thứ ba, làm cho nội dung pháp luật phù hợp với các yêu cầu của đời sống, có hình thức rõ ràng, dễ hiểu, tiện lợi cho việc sử dụng.
Thực tế cho thấy nếu như không có công tác hệ thống hóa pháp luật hoặc việc thực hiện này sẽ còn yếu, kém hiệu quả thì nó sẽ không chỉ gây khó khăn cho các cơ quan bảo vệ pháp luật nói riêng, những cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nói chung và mọi các tầng lớp nhân dân trong tra cứu, tìm kiếm văn bản mà quan trọng hơn chính là không thể khắc phục được những sự không phù hợp, mâu thuẫn hay chồng chéo, thậm chí là cả những lỗ hổng của sự điều chỉnh pháp luật đối với các lĩnh vực quan hệ xã hội nhất định.
Hệ thống hóa pháp luật còn góp phần nâng cao ý thức pháp luật,thực hiện được nghiêm chỉnh pháp luật cho mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là đối với hoạt động bảo vệ pháp luật. Sự sắp xếp có trình tự và hệ thống các quy phạm pháp luật cho phép những cơ quan có thẩm quyền và các đơn vị, cá nhân dễ dàng truy cứu được, tìm kiếm những quy phạm pháp luật cần thiết, làm sáng tỏ về tư tưởng của chúng và áp dụng được đúng đắn để giải quyết những vụ việc cụ thể.
3. Các nguyên tắc trong hệ thống hóa pháp luật:
Trước tầm quan trọng của công tác hệ thống hóa pháp luật, trong quá trình hệ thống hóa cần phải chú ý tới các nguyên tắc đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp và cả tính thống nhất của các văn bản quy phạm pháp luật; không bỏ lọt các văn bản trong quá trình rà soát, hệ thống hóa; đảm bảo được nguyên tắc hệ thống hóa theo chuyên đề, lĩnh vực điều chỉnh của pháp luật, theo đúng thẩm quyền ban hành và theo trình tự thời gian; đảm bảo được sự phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật…Đối với công tác pháp điển nói riêng, khi thực hiện cần phải tuân thủ nguyên tắc gồm:
– Không làm thay đổi nội dung của quy phạm pháp luật được pháp điển;
– Theo thứ bậc hiệu lực pháp lý của quy phạm pháp luật từ cao xuống thấp;
– Cập nhật quy phạm pháp luật mới được ban hành vào Bộ pháp điển và loại bỏ các quy phạm pháp luật hết hiệu lực khỏi Bộ pháp điển;
–Tuân thủ thẩm quyền, trình tự, thủ tục thực hiện pháp điển hóa.
Văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015.