Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng của Luật Bưu chính. Nguyên tắc xây dựng và thực hiện pháp luật về vận chuyển Bưu điện.
Mục lục bài viết
- 1 1. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng của Luật Bưu chính:
- 2 2. Nguyên tắc xây dựng pháp luật về vận chuyển bưu điện:
- 3 3. Thực hiện pháp luật về vận chuyển bưu điện:
- 4 4. Nhà nước thực hiện cung ứng vận chuyển bưu điện phổ cập:
- 5 5. Nhà nước chỉ định doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ cung ứng vận chuyển bưu điện công ích:
- 6 6. Phạm vi vận chuyển bưu điện dành riêng:
- 7 7. Cấp giấy phép kinh doanh vận chuyển bưu điện:
1. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng của Luật Bưu chính:
Theo quy định tại Điều 1 Luật Bưu chính 2010: Phạm vi điều chỉnh của Luật Bưu chính bao gồm các vấn đề về hoạt động bưu chính; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong hoạt động bưu chính và quản lý nhà nước về hoạt động bưu chính.
Theo quy định tại Điều 2 Luật Bưu chính 2010: Về đối tượng áp dụng Luật Bưu chính bao gồm các tổ chức, cá nhân thực hiện, tham gia thực hiện hoạt động bưu chính tại Việt Nam.
2. Nguyên tắc xây dựng pháp luật về vận chuyển bưu điện:
Tại Điều 4 Luật Bưu chính 2010 quy định về Nguyên tắc hoạt động bưu chính quy định:
– Bảo đảm an ninh, an toàn, kịp thời, chính xác, tiện lợi trong cung ứng và sử dụng vận chuyển bưu chính.
– Bảo đảm bí mật thư theo quy định của pháp luật.
– Kinh doanh vận chuyển bưu chính theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
– Bảo đảm cung ứng vận chuyển bưu chính công ích thường xuyên, ổn định cho xã hội.
– Tôn trọng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động bưu chính.
Tại Điều 14 Luật Bưu chính 2010 quy định về việc đảm bảo an ninh trong cung ứng và sử dụng dịch vụ Bưu chính, theo đó: Trường hợp bưu gửi bị phát hiện vi phạm quy định tại Điều 12 của Luật này thì doanh nghiệp cung ứng vận chuyển bưu điện có trách nhiệm:
a) Đình chỉ vận chuyển, phát bưu gửi đó;
b)
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền tạm đình chỉ vận chuyển, phát bưu gửi; kiểm tra, xử lý bưu gửi hoặc yêu cầu cung cấp thông tin về sử dụng vận chuyển bưu chính trong các trường hợp sau đây:
a) Có căn cứ xác định bưu gửi có liên quan hoặc dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia hoặc hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng khác;
b) Bưu gửi có liên quan đến vụ án hình sự mà việc kiểm tra, xử lý bưu gửi và yêu cầu cung cấp thông tin về sử dụng vận chuyển bưu chính được pháp luật cho phép.
Việc tạm đình chỉ vận chuyển, phát bưu gửi; kiểm tra, xử lý bưu gửi hoặc yêu cầu cung cấp thông tin về sử dụng vận chuyển bưu chính quy định tại khoản 2 Điều này chỉ được thực hiện sau khi có yêu cầu bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Việc đình chỉ, tạm đình chỉ vận chuyển, phát bưu gửi; kiểm tra, xử lý bưu gửi và yêu cầu cung cấp thông tin về sử dụng vận chuyển bưu chính quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này phải được lập biên bản, có chữ ký của các bên liên quan.
Tổ chức, cá nhân không được lợi dụng việc đình chỉ, tạm đình chỉ vận chuyển, phát bưu gửi; kiểm tra, xử lý bưu gửi và yêu cầu cung cấp thông tin về sử dụng vận chuyển bưu chính để gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân cung ứng và sử dụng vận chuyển bưu chính.
Doanh nghiệp cung ứng vận chuyển bưu chính có trách nhiệm phối hợp, tạo điều kiện cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện nhiệm vụ quy định tại khoản 2 Điều này.
Việc đình chỉ, tạm đình chỉ vận chuyển, phát bưu gửi; kiểm tra, xử lý bưu gửi và yêu cầu cung cấp thông tin về sử dụng vận chuyển bưu chính không được ảnh hưởng đến hoạt động bình thường và chất lượng vận chuyển bưu chính của doanh nghiệp cung ứng vận chuyển bưu chính.
3. Thực hiện pháp luật về vận chuyển bưu điện:
Tại điều 25 Luật Bưu Chính 2010 quy định về việc
Các hoạt động bưu chính sau đây phải được thông báo bằng văn bản cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền về bưu chính:
a) Cung ứng vận chuyển thư không có địa chỉ nhận có khối lượng đơn chiếc đến 02 kilôgam (kg);
b) Cung ứng vận chuyển thư có khối lượng đơn chiếc trên 02 kilôgam (kg);
c) Cung ứng vận chuyển gói, kiện;
d) Làm đại lý cho doanh nghiệp cung ứng vận chuyển bưu chính nước ngoài;
đ) Nhận nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực bưu chính từ nước ngoài vào Việt Nam;
e) Làm đại diện cho doanh nghiệp cung ứng vận chuyển bưu chính nước ngoài;
g) Làm chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp cung ứng vận chuyển bưu chính được thành lập theo pháp luật Việt Nam;
h) Làm văn phòng đại diện của doanh nghiệp cung ứng vận chuyển bưu chính nước ngoài.
2, Trường hợp có thay đổi nội dung đã thông báo, doanh nghiệp cung ứng vận chuyển bưu chính, các tổ chức quy định tại điểm g và điểm h khoản 1 Điều này phải thông báo về việc thay đổi nội dung đó với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về bưu chính.
3. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền về bưu chính xác nhận bằng văn bản các trường hợp thông báo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.
Văn bản xác nhận thông báo hoạt động vận chuyển bưu chính được cấp lại trong trường hợp bị mất hoặc bị hư hỏng không sử dụng được.
Trong thời gian thực hiện thủ tục thông báo, doanh nghiệp cung ứng vận chuyển bưu chính, các tổ chức quy định tại điểm g và điểm h khoản 1 Điều này được tiến hành các hoạt động bưu chính theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc Giấy chứng nhận đầu tư hoặc Giấy phép thành lập văn phòng đại diện của thương nhân nước ngoài hoặc thông báo chấp thuận đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại đã được cấp tại Việt Nam.
Theo quy định tại Điều 26 Luật Bưu chính 2010 quy định về các trường hợp không cần giấy phép bưu chính, không cần thông báo hoạt động, theo đó:
Cá nhân nhận, vận chuyển và phát thư, gói, kiện hàng hoá trên cơ sở tự thoả thuận với người gửi mà không lấy tiền công với số lượng bưu gửi tối đa theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về bưu chính.
Tổ chức nhận, vận chuyển và phát thư, gói, kiện hàng hóa trong nội bộ hoặc cho khách hàng của mình mà không lấy tiền công.
Hoạt động cung cấp vận chuyển bưu điện quy định tại khoản 1 Điều 19 của Luật này.
4. Nhà nước thực hiện cung ứng vận chuyển bưu điện phổ cập:
Vận chuyển bưu điện phổ cập nhằm phục vụ nhu cầu và lợi ích chung thiết yếu của toàn xã hội. Do vậy, các tổ chức và công dân đều có quyền tiếp cận, có quyền thụ hưởng và bình đẳng trong tiếp cận dịch vụ. Do vậy, Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm việc cung ứng các dịch vụ này được thực hiện một cách liên tục, có chất lượng đến mọi người dân với giá cước phù hợp.
5. Nhà nước chỉ định doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ cung ứng vận chuyển bưu điện công ích:
Để bảo đảm quyền được trao đổi thông tin thiết yếu của người dân về bưu chính và để mọi người dân có thể tiếp cận, sử dụng vận chuyển bưu điện cơ bản ở khắp mọi nơi thì mạng lưới cung ứng dịch vụ phải rộng khắp, đặc biệt là ở những vùng kinh tế còn nhiều khó khăn. Tuy nhiên, do các doanh nghiệp ngại đầu tư cung ứng vận chuyển bưu điện công ích (vì kinh doanh không có lãi và khó thu hồi vốn) nên rất cần sự đầu tư của Nhà nước.
Mặt khác, hiện tại, tình hình kinh tế xã hội cũng như bưu chính của Việt Nam ở nhiều vùng phát triển còn thấp, đặc biệt là những vùng nghèo, Nhà nước cần tập trung đầu tư cho doanh nghiệp có đủ điều kiện thực hiện nhiệm vụ cung ứng vận chuyển bưu điện công ích để đảm bảo hiệu quả vốn đầu tư của Nhà nước, tập trung lưu lượng, tận dụng mạng lưới đã đầu tư, giảm bớt gánh nặng chi phí và sự hỗ trợ của Nhà nước. Do vậy, Luật Bưu chính đã quy định về việc chỉ định doanh nghiệp thực hiện cung ứng vận chuyển bưu chính công ích với các quyền và nghĩa vụ cụ thể.
6. Phạm vi vận chuyển bưu điện dành riêng:
Phạm vi dịch vụ Bưu chính dành riêng là một phân đoạn thị trường bưu chính được Nhà nước dành riêng cho doanh nghiệp được chỉ định nhằm cung ứng vận chuyển bưu chính công ích.
Luật Bưu chính 2010 đã quy định: Vận chuyển bưu điện dành riêng, gồm dịch vụ thư có địa chỉ nhận, có khối lượng đơn chiếc đến 02 kilôgam (kg) với mức giá cước theo quy định của pháp luật; và phạm vi vận chuyển bưu điện dành riêng giảm dần căn cứ vào tình hình phát triển bưu chính trong từng thời kỳ.
7. Cấp giấy phép kinh doanh vận chuyển bưu điện:
Giấy phép kinh doanh vận chuyển bưu điện được thực hiện nhằm mục đích bảo vệ người tiêu dùng và đảm bảo an ninh quốc gia.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 21 Luật Bưu chính 2010 đã đưa ra các điều kiện để một doanh nghiệp được cấp giấy phép kinh doanh vận chuyển Bưu điện bao gồm:
– Doanh nghiệp phải có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoạt động bưu chính hoặc giấy chứng nhận đầu tư trong lĩnh vực Bưu chính;
– Doanh nghiệp cần phải có khả năng tài chính, nhân sự phù hợp với phương án kinh doanh theo nội dung đề nghị được cấp giấy phép;
– Doanh nghiệp cần có phương án kinh doanh khả thi, phù hợp với quy định về giá cước, chất lượng dịch vụ Bưu chính
– Doanh nghiệp cần có biện pháp bảo đảm an ninh thông tin và an toàn đối với con người, bưu gửi, mạng bưu chính.
Quyền được trao đổi thông tin là một trong những quyền cơ bản của con người và điều này cũng được thể hiện rõ trong Công ước của Liên minh Bưu chính Thế giới. Ngoài ra, việc đảm bảo bí mật thư tín và quyền thông tin của công dân đã được thể chế hóa trong Hiến pháp cũng như các quy định khác của pháp luật như Bộ Luật Hình sự, Bộ Luật Dân sự cũng như các quy định chuyên ngành.
Theo
Như vậy, vận chuyển bưu điện là một trong những lĩnh vực kinh doanh có điều kiện nhằm bảo vệ bí mật thư tín, quyền trao đổi thông tin của công dân, nên doanh nghiệp được quyền kinh doanh ngành nghề đó, kể từ khi có đủ điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, việc cấp giấy phép bưu chính được thực hiện một cách linh hoạt dưới nhiều hình thức để phù hợp với thực tế hoạt động của thị trường cũng như công tác quản lý của Nhà nước.
Bên cạnh đó theo quy định tại Điều 26 Luật Bưu chính 2010 cũng đã quy định về các trường hợp không cần giấy phép bưu chính, không cần thông báo hoạt động, cụ thể:
– Cá nhân nhận, vận chuyển và phát thư, gói, kiện hàng hoá trên cơ sở tự thoả thuận với người gửi mà không lấy tiền công với số lượng bưu gửi tối đa theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về bưu chính.
– Tổ chức nhận, vận chuyển và phát thư, gói, kiện hàng hóa trong nội bộ hoặc cho khách hàng của mình mà không lấy tiền công.
– Hoạt động cung cấp mạng bưu chính phục vụ cơ quan Đảng, nhà nước, quốc phòng, an ninh không vì mục đích kinh doanh.