Việc cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là một trong những căn cứ quan trọng để quyết định hình phạt đối với người phạm tội. Vậy phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn có được coi là tình tiết giảm nhẹ hay không?
Mục lục bài viết
1. Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được giảm nhẹ?
Căn cứ theo quy định tại Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 có quy định về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Theo đó, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự sẽ bao gồm các tình tiết như sau:
– Người phạm tội đã thực hiện hành vi ngăn chặn, giảm bớt tác hại của tội phạm trên thực tế trong phạm vi khả năng của mình;
– Người phạm tội đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, có hành vi khắc phục hậu quả;
– Người phạm tội phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
– Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi thực hiện hoạt động bắt giữ người phạm tội của cơ quan chức năng có thẩm quyền;
– Phạm tội trong trường hợp bị kích động mạnh về tinh thần, nguyên nhân dẫn đến vấn đề kích động về tinh thần trong trường hợp này là do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
– Phạm tội xuất phát vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, tuy nhiên hoàn cảnh khó khăn đó không phải do người phạm tội tự mình gây ra;
– Phạm tội tuy nhiên chưa gây ra hậu quả trên thực tế, hoặc có gây ra hậu quả nhưng hậu quả thiệt hại không lớn;
– Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
– Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức, dẫn đến khả năng không thể chống cự và không có sự lựa chọn nào khác;
– Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức, trường hợp hạn chế khả năng đó không phải do lỗi của người phạm tội gây ra;
– Phạm tội do bị lạc hậu, người phạm tội được xác định là phụ nữ có thai, người phạm tội được xác định là người từ đủ 70 tuổi trở lên;
– Người phạm tội được xác định là người khuyết tật nặng hoặc người khuyết tật đặc biệt nặng theo quy định của pháp luật về khuyết tật;
– Người phạm tội tự thú, người phạm tội là người mắc các bệnh dẫn đến khả năng hạn chế nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi của mình;
– Người phạm tội đã có công chuộc tội, giúp đỡ tích cực cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình phát hiện và điều tra tội phạm;
– Người phạm tội có hành vi thành khẩn khai báo tại cơ quan có thẩm quyền, ăn năn hối cải, có thành tích xuất sắc trong quá trình sản xuất, chiến đấu, học tập và công tác;
– Người phạm tội có mối quan hệ là cha mẹ, vợ chồng, con của các đối tượng là liệt sĩ, người có công với cách mạng.
Theo đó thì có thể nói, theo quy định cụ thể tại điểm g khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, thì hành vi phạm tội do hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, hoàn cảnh đó không phải do người phạm tội tự mình gây ra là một trong những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên cho đến thời điểm hiện tại, vẫn không có bất cứ một văn bản hướng dẫn nào đưa ra hướng dẫn cụ thể về việc phạm tội xuất phát từ hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Có thể hiểu vấn đề này như sau:
Phạm tội xuất phát từ lý do hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, hoàn cảnh đặc biệt khó khăn đó không phải do người phạm tội tự mình gây ra được xem là một trong những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Đây là trường hợp người phạm tội đang gặp phải hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, đó có thể là khó khăn về vật chất và khó khăn về tinh thần, những khó khăn đó chính là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hành vi phạm tội của người phạm tội, người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội nhằm mục đích khắc phục hoàn cảnh khó khăn của bản thân. Để có thể trở thành một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015, tình tiết phạm tội vì hoàn cảnh khó khăn cần phải mang những đặc điểm cơ bản như sau:
– Đối với bản thân của người phạm tội, người phạm tội cần phải đang rơi vào hoàn cảnh đặc biệt khó khăn như mắc bệnh hiểm nghèo, không có tiền chữa trị …;
– Về hoàn cảnh đặc biệt khó khăn của người phạm tội, hoàn cảnh đó không phải do người phạm tội tự mình gây ra, tức là người phạm tội không có lỗi trong vấn đề xảy ra hoàn cảnh đặc biệt khó khăn đó. Ví dụ như: người phạm tội trong tình trạng bị mắc bệnh hiểm nghèo, hoàn cảnh khó khăn xảy ra do các hiện tượng thiên tai, hỏa hoạn … Nếu hoàn cảnh khó khăn do người phạm tội tự mình gây ra thì đó sẽ không được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hình sự;
-Về hành vi phạm tội, hành vi phạm tội của người phạm tội phải có nguyên nhân trực tiếp là suất phát từ hoàn cảnh đặc biệt khó khăn của người phạm tội. Nếu hành vi phạm tội xảy ra từ một nguyên nhân khác thì sẽ không được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Như vậy có thể nói, phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn có thể sẽ được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khi có điều kiện là “hoàn cảnh đặc biệt khó khăn đó không do người phạm tội tự gây ra”.
2. Lợi dụng hoàn cảnh khó khăn đặc biệt để phạm tội là tình tiết tăng nặng?
Căn cứ theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 có quy định về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Cụ thể bao gồm:
– Trường hợp phạm tội có tổ chức;
– Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp;
– Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong quá trình phạm tội;
– Phạm tội có tính chất côn đồ;
– Phạm tội xuất phát từ động cơ đê hèn;
– Cố tình thực hiện phạm tội đến cùng;
– Phạm tội từ hai lần trở lên;
– Thực hiện hành vi tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm;
– Phạm tội đối với những người được xác định là người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai, những người được xác định là người từ đủ 70 tuổi trở lên;
– Phạm tội đối với người ở trong tình trạng không thể tự vệ, những người được xác định là người khuyết tật nặng hoặc tật đặc biệt nặng theo quy định của pháp luật về khuyết tật, những người bị hạn chế khả năng nhận thức và khả năng làm chủ hành vi, những người lệ thuộc về mặt tinh thần/vật chất/công tác hoặc các mặt khác;
– Có hành vi lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, lợi dụng tình trạng thiên tai, tình trạng khẩn cấp, lợi dụng tình trạng dịch bệnh hoặc những hoàn cảnh đặc biệt khó khăn khác để phạm tội;
– Dùng thủ đoạn tinh vi xạo quyệt, tàn ác trong quá trình phạm tội;
– Dùng thủ đoạn và sử dụng các phương tiện có khả năng gây nguy hại cho nhiều người trong quá trình phạm tội;
– Có hành vi sử dụng đối tượng dưới 18 tuổi phạm tội dưới bất kỳ hình thức nào;
– Sử dụng hành động xảo quyệt, hung hãn nhằm mục đích trốn tránh hoặc che giấu tội phạm.
Theo đó thì có thể nói, hành vi lợi dụng hoàn cảnh khó khăn đặc biệt để phạm tội được xem là một trong những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
3. Ý nghĩa của việc quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự là những tình tiết có ý nghĩa làm giảm đi tỉnh nguy hiểm của hành vi phạm tội, làm cơ sở cho việc quyết định hình phạt giảm nhẹ hơn đối với một hành vi phạm tội nhất định. Chính vì vậy, việc quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự có ý nghĩa quan trọng cả về phương diện xã hội cũng như phương diện pháp lý.
Thứ nhất, về phương diện xã hội. Việc quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là một bảo đảm quan trọng để thực hiện bình đẳng xã hội trong lĩnh vực hình sự và thực hiện chính sách hình sự của Nhà nước ta trong xử lý tội phạm. Bởi lẽ, tội phạm được thực hiện bởi những cá nhân cụ thể với những đặc điểm khác biệt về nhân thân (như trình độ văn hóa, hoàn cảnh gia đình, thái độ đối với pháp luật …), với sự khác nhau về mức độ thực hiện tội phạm, hình thức thực hiện tội phạm, mức độ lỗi, mức độ tác hại xảy ra trên thực tế. Những tình tiết này ở mức độ nhất định có ảnh hưởng đến trách nhiệm hình sự của người phạm tội. Việc quy định các tình tiết giảm nhẹ trong pháp luật hình sự không những để thực hiện bình đẳng xã hội trong lĩnh vực hình sự mà còn nhằm thực hiện chính sách hình sự của Nhà nước trong lĩnh vực xử lý tội phạm.
Thứ hai, về phương diện pháp lý, việc quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là căn cứ quyết định hình phạt không chỉ hướng dẫn cho các Tòa án đánh giá đúng mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội để từ đó tuyên một hình phạt phù hợp mà còn đảm bảo việc áp dụng thông nhất các tình tiết giảm nhẹ trong phạm vi cả nước, góp phần hạn chế tình trạng tùy tiện trong áp dụng pháp luật.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi năm 2017).