Về cơ bản, khoản 1 Điều 355 BLHS 2015 không có quá nhiều khác biệt đối với khung cấu thành cơ bản tại Điều 280 BLHS 1999. Các quy định về hình phạt từ 01 năm tù đến 06 năm tù và nhân thân người phạm tội giữ nguyên. Điểm thay đổi là định mức tài sản tăng lên.
Mục lục bài viết
- 1 1. Hình phạt áp dụng đối với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản theo khoản 1 Điều 355 Bộ luật hình sự:
- 2 2. Hình phạt áp dụng đối với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản theo khoản 2 Điều 355 Bộ luật hình sự:
- 3 3. Hình phạt áp dụng đối với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản theo khoản 3 Điều 355 Bộ luật hình sự:
- 4 4. Hình phạt áp dụng đối với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản theo khoản 4 Điều 355 Bộ luật hình sự:
- 5 5. Hình phạt bổ sung áp dụng đối với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản theo khoản 1 Điều 355 Bộ luật hình sự:
1. Hình phạt áp dụng đối với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản theo khoản 1 Điều 355 Bộ luật hình sự:
Đây là trường hợp phạm tội không có các tình tiết định khung, hoặc đã được xem xét giảm khung theo quy định Điều 51, Điều 54 BLHS năm 2015.
Về cơ bản, khoản 1 Điều 355 BLHS năm 2015 không có quá nhiều khác biệt đối với khung cấu thành cơ bản tại Điều 280 BLHS năm 1999. Các quy định về hình phạt từ 01 năm tù đến 06 năm tù và nhân thân người phạm tội được giữ nguyên; Điểm thay đổi là định mức tài sản tăng lên phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội hiện nay của đất nước và thực tiễn yêu cầu đấu tranh đối với tội phạm tham nhũng nói chung. Theo đó, so với Bộ luật hình sự 1999 từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng được thay bằng từ 2.000.000 đến dưới 100.000.000 đồng.
Cũng cần lưu ý, đối với trường hợp phạm tội ở các khung hình phạt nặng hơn nếu có nhiều tình tiết giảm nhẹ theo quy định Điều 51 Toà án có thể xem xét quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng theo quy định Điều 54, đề xuất mức hình phạt tụt khung theo đúng quy định pháp luật. Trong trường hợp phạm tội ở khung khoản 1 Điều 355, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng thì có thể áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ (dưới mức thấp nhất của khung khoản 1). Toà án cũng có thể cho người phạm tội hưởng án treo nếu thỏa mãn điều kiện quy định tại Điều 65 BLHS năm 2015 hoặc quyết định hình phạt trong khung từ 01 năm tù đến 06 năm tù; đồng thời tuỳ tính chất mức độ Toà án có thể áp dụng thêm hình phạt bổ sung quy định tại khoản 1 Điều 355.
2. Hình phạt áp dụng đối với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản theo khoản 2 Điều 355 Bộ luật hình sự:
Khoản 2 Điều 355 BLHS quy định hình phạt trong khung từ 06 năm tù đến 13 năm tù trong trường hợp có một trong những tình tiết:
Thứ nhất, có tổ chức
Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có kết cấu chặt chẽ, có sự thông mưu và lên kế hoạch một cách kỹ càng trước khi thực hiện tội phạm. Tính nguy hiểm của hình thức đồng phạm này thể hiện ở mối liên hệ chặt chẽ giữa các thành viên tham gia thực hiện tội phạm. Sự đồng nhất về mặt chủ quan (yếu tố lỗi, động cơ, mục đích) làm tội phạm được thực hiện một cách quyết liệt hơn; đồng thời mức độ phân chia vai trò, nhiệm vụ cũng cho thấy phương thức phạm tội có tính kế hoạch và chuyên nghiệp. Nói cách khác, đặc trưng của phạm tội có tổ chức là tính chặt chẽ trong tổ chức và tính thống nhất cao trong việc lên kế hoạch phạm tội.
Với bản chất như vậy, nhóm người phạm tội này có khả năng gây nguy hại đáng kể cho xã hội thông qua việc thực hiện các hành vi phạm tội tinh vi mà một cá nhân đơn lẻ khó có thể thực hiện được, phạm tội liên tục với số lượng bị hại lớn và hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. So với đồng phạm giản đơn, rõ ràng phạm tội có tổ chức có tính nguy hiểm cao hơn rất nhiều, điều này cũng được thể | hiện tại điểm a khoản 1 Điều 52 với vai trò là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự hoặc các tình tiết định khung trong các tội phạm cụ thể.
Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản có tổ chức được hiểu là trường hợp tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản có quy mô từ 02 người trở lên cố ý cùng thực hiện, trong đó có sự cấu kết chặt chẽ giữ các thành viên cùng thực hiện tội phạm. Sự cấu kết này được thể hiện thông qua kế hoạch thực hiện tội phạm và sự phân công vai trò giữa các các thành viên trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức. Mối liên hệ giữa các thành viên thậm chí có thể vẫn còn tồn tại sau khi đã gây ra hậu quả. Đây là cơ sở tạo nên nhóm lợi ích, nhiều lần phạm tội và thậm chí là tổ chức tội phạm, ... Tính chất đồng phạm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho tội phạm được thực hiện, tuy nhiên cũng cần lưu ý tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản có tổ chức chỉ được xem xét nếu người thực hành đáp ứng các yêu cầu của chủ thể đặc biệt về chức vụ, quyền hạn.
Thứ hai, Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm
Dùng thủ đoạn xảo quyệt là trường hợp người phạm tội sử dụng thủ đoạn dối trá một cách tinh vi, sử dụng công nghệ cao để thực hiện hành vi phạm tội, che giấu tội phạm, đổ tội cho người khác hoặc người phạm tội có hành vi tiêu hủy chứng cứ, gây khó khăn cho việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm. Dùng thủ đoạn nguy hiểm là trường hợp người phạm tội sử dụng thủ đoạn có thể gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của người khác hoặc có thể gây hậu quả nghiêm trọng khác để chiếm đoạt tài sản hoặc che giấu tội phạm. Với thủ đoạn này, tội phạm thường được thực hiện một cách kín đáo, khó xác định và khó bị phát hiện. Việc sử dụng thủ đoạn này trong trường | hợp phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản gây ra nhiều tác động tiêu cực, đặc biệt do hành vi phạm tội không bị phát hiện, người phạm tội sẽ tiếp tục thực hiện hành vi gây nguy hại lớn đến tài sản công dân, xói mòn niềm tin, giảm sút uy tín và thất thoát tài sản nhà nước.
Thứ ba, Phạm tội 02 lần trở lên
Nghị quyết số 03/2020/NQ–HĐTP của Hội đồng Thẩm phán
Tình tiết “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại khoản 2 các điều 353, 354, 355, 356, 357, 358, 361, 304, 365 và 366 của Bộ luật Hình sự là trường hợp người phạm tội đã thực hiện một trong các hành vi quy định tại các điều này từ 02 lần trở lên và mỗi hành vi đều cấu thành tội phạm, nhưng đều chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.
Trên thực tế nội dung này đã được ghi nhận ở BLHS năm 1999 với tình tiết “phạm tội nhiều lần” và đồng thời được quy định tại Điều 52 BLHS năm 2015 với vai trò là một tình tiết tăng nặng TNHS. Phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản 02 lần trở lên tương tự như các trường hợp phạm tội 02 lần trở lên khác. Người phạm tội không bị xem xét trách nhiệm với bất cứ hình thức xử lý nào. Nếu trong lần “O2 trở lên” phạm tội mà hành vi phạm tội trước đó đã bị xử lý kỷ luật hành chính hay truy cứu TNHS hoặc đã hết thời hiệu truy cứu TNHS thì không được xem xét tình tiết “phạm tội 02 lần trở lên” cả khoản 2 Điều 355 và điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015.
Thứ tư, Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng
Đây là trường hợp người phạm tội chiếm đoạt một khối lượng tài sản đáng kể được xác định giá trị từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng. Giá trị tài sản được quy đổi ra giá trị tiền. Đặc biệt trong trường hợp tài sản bị chiếm đoạt không phải là tiền thì giá trị tài sản được định giá thông qua giá thị trường tại thời điểm phạm tội. Hoạt động định giá phải được thực hiện theo đúng quy định pháp luật, trong trường hợp cần thiết cơ quan tiến hành tố tụng có thể yêu cầu thành lập hội đồng định giá tài sản, trưng cầu giám định đáp ứng các yêu cầu tại Điều 100, Điều 101 BLTTHS năm 2015.
Thứ năm, gây thiệt hại về tài sản từ 1.000.000.000 đến dưới 3.000.000.000 đồng
So với BLHS năm 1999, BLHS năm 2015 bổ sung định mức tài sản bị thiệt hại cụ thể từ 1.000.000.000 đến dưới 3.000.000.000 đồng. Tình tiết này được áp dụng trong trường hợp người phạm tội thoả mãn cấu thành cơ bản ở khoản 1 Điều 355 BLHS với nội dung ngoài tài sản chiếm đoạt bất hợp pháp người phạm tội còn gây thiệt hại đáng kể về tài sản cho nhà nước, tổ chức, cơ quan hoặc công dân.
Thứ sáu, Chiếm đoạt tiền, tài sản dùng vào mục đích xóa đói, giảm nghèo; tiền, phụ cấp, trợ cấp, ưu đãi đối với người có công với cách mạng; các loại quỹ dự phòng hoặc các loại tiền, tài sản trợ cấp, quyên góp cho những vùng bị thiên tai, dịch bệnh hoặc các vùng kinh tế đặc biệt khó khăn.
Đây là trường hợp người phạm tội đã thỏa mãn những cấu thành cơ bản ở khoản 1, tuy nhiên đối tượng tài sản mà người phạm tội chiếm đoạt được xác định là có giá trị xã hội lớn. Chiếm đoạt tài sản này có thể gây ra những hậu quả đáng kể, đặc biệt trong trường hợp tài sản trợ cấp thiên tai dịch bệnh còn hậu quả có thể liên quan đến sức khỏe, tính mạng con người. Giá trị đạo đức được thiết lập một lần nữa khẳng định tính nhân văn của BLHS. Các hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn trong các chương trình xoá đói, giảm nghèo, hỗ trợ thiên tai dịch bệnh, hỗ trợ các vùng kinh tế khó khăn thường xuyên bị ảnh hưởng do bão lũ, .. nhằm chiếm đoạt tài sản cần bị lên án và xử lý nghiêm minh.
3. Hình phạt áp dụng đối với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản theo khoản 3 Điều 355 Bộ luật hình sự:
Phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 13 năm đến 20 năm:
Thứ nhất, chiếm đoạt tài sản trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;
Hậu quả được xác định là một trong những căn cứ quan trọng xác định tính chất nguy hiểm của tội phạm và xác định hình phạt tương ứng. Tương tự như ở điểm d khoản 2 Điều 355 BLHS việc xác định giá trị tài sản cần căn cứ vào giá trị thị trường tại thời điểm tội phạm xảy ra, trong trường hợp cần thiết cơ quan tiến hành tố tụng có thể yêu cầu trưng cầu định giá tài sản.
Thứ hai, Gây thiệt hại về tài sản từ 3.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000 đồng;
Đây là trường hợp tương tự điểm đ khoản 2 áp dụng khi đã thỏa mãn các cấu thành cơ bản tại khoản 1 Điều 355 BLHS. Cần lưu ý cũng tương tự như điểm d khoản 2 Điều 355 BLHS năm 2015, thiệt hại về tài sản có thể được xác định là thiệt hại về vật chất, thất thoát tiền, hoặc các tài sản khác; Giá trị tài sản bị thiệt hại được xác định bằng giá thị trường trong trường hợp cần thiết cơ quan tiến hành tố tụng có thể yêu cầu trưng cầu định giá tài sản làm căn cứ áp dụng nội dung này.
Thứ ba, Dẫn đến doanh nghiệp hoặc tổ chức khác bị phá sản hoặc ngừng hoạt động
Đây là trường hợp thỏa mãn các cấu thành cơ bản tại khoản 1 Điều 355 BLHS năm 2015, tuy nhiên hậu quả có tác động đến tài sản của cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp, dẫn đến tình trạng bất ổn về nguồn vốn, mất cân bằng cơ cấu kinh tế, ... Hậu quả là doanh nghiệp, tổ chức đó phải dừng hoạt động hoặc tuyên bố phá sản do mất khả năng thanh khoản. Trên thực tế đây là hậu quả gián tiếp của khi người có chức vụ quyền, quyền hạn ngoài tài sản chiếm đoạt còn gây thất thoát, tổn thất cho tài sản của doanh nghiệp, tổ chức khác. Doanh nghiệp phá sản, ngừng hoạt động dẫn tới tình trạng thất nghiệp phổ biến, đẩy đời sống vật chất của người dân xuống thấp (đây là nguyên nhân sâu xa của các hành vi phạm tội khác).
Thứ tư, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội
An ninh, trật tự, an toàn xã hội “là kết quả của một trạng thái xã hội ổn định, bền vững được điều chỉnh bởi hệ thống quy phạm pháp luật, đạo đức và chính trị; là sản phẩm tất yếu của một xã hội có nhà nước” (Tư duy lý luận về bảo đảm trật tự an toàn xã hội trong tình hình hiện nay). Nói cách khác, an ninh, trật tự, an toàn xã hội là thành tựu của công cuộc cách mạng toàn dân, là trạng thái xã hội tương đối ổn định trên cơ sở tôn trọng pháp luật và các giá trị đạo đức vốn có, nhờ vậy nhân dân có điều kiện xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc. Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội là hành vi tạo nên những tác động xấu, gây bất ổn thậm chí phá vỡ trật tự, kỷ cương của xã hội và được xác định là một trong các trường hợp sau:
a) Gây khiếu kiện đông người, biểu tình, gây rối để các thế lực thù địch lợi dụng, lôi kéo, kích động chống phá chính quyền, xuyên tạc đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước;
b) Gây hoang mang, lo sợ hoặc phẫn nộ trong nhân dân;
c) Gây khó khăn trong việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
4. Hình phạt áp dụng đối với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản theo khoản 4 Điều 355 Bộ luật hình sự:
Khoản 4 Điều 355 BLHS năm 2015 quy định mức hình phạt tù 20 năm hoặc tù chung thân cho thấy tính nghiêm khắc đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội này. Các tình tiết định khung ở khoản 4 tập trung vào giá trị tài sản mà tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản tác động tới gồm: Chiếm đoạt tài sản trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên hoặc gây thiệt hại về tài sản 5.000.000.000 đồng trở lên. Nội dung tương tự như điểm d và điểm đ khoản 2 Điều 355 BLHS năm 2015, tài sản khác tiền cần được xem xét định giá theo giá thị trường trên cơ sở đúng quy định pháp luật. Cũng cần lưu ý, người phạm tội phải thoả mãn các cấu thành cơ bản ở khoản 1 Điều 355 BLHS năm 2015.
5. Hình phạt bổ sung áp dụng đối với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản theo khoản 1 Điều 355 Bộ luật hình sự:
Khoản 1 Điều 355 BLHS năm 2015 quy định về hình phạt bổ sung đối với với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản với nội dung: “Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm, có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản“.
Như vậy khoản 5 quy định thêm 03 hình phạt bổ sung có thể xem xét áp dụng đồng thời với hình phạt chính. Cụ thể:
Thứ nhất, cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định
Cấm đảm nhiệm chức vụ được áp dụng trong trường hợp xét thấy nếu người phạm tội tiếp tục đảm nhiệm chức vụ đó sẽ gây nguy hại cho xã hội. Đồng thời cũng theo quy định tại Điều 41 BLHS năm 2015 thời hạn cấm được xác định từ 01 đến 05 năm, kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù hoặc từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật nếu hình phạt chính là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc trong trường hợp người bị kết án được hưởng án treo. Như vậy, khung hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ trong trường hợp phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản được quy định khoảng tùy nghi cao và có mức tối đa của loại hình phạt này. Tuy nhiên, các văn bản hướng dẫn áp dụng chưa phản ánh rõ nội dung cũng như các tiêu chí đánh giá mức độ “gây nguy hại cho xã hội” tại Điều 41 BLHS năm 2015.
Thứ hai, phạt tiền
Phạt tiền là hình phạt cần thiết được áp dụng đối với tội phạm tham nhũng nói chung và tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản nói riêng. Điều này đánh thẳng vào động cơ vụ lợi chiếm đoạt tài sản của tội phạm này; mặt khác, Điều 35 BLHS năm 2015 quy định hình phạt tiền “... được áp dụng là hình phạt bổ sung đối với người phạm tội về tham nhũng ...“.
Hình phạt tiền thực tế đã được quy định tại Điều 280 BLHS năm 1999 với mức phạt từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. Mức phạt này được tăng lên thành 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng tại Điều 355 BLHS năm 2015 nhằm phù hợp với tình hình kinh tế – xã hội và yêu cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm tham nhũng.
Thứ ba, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản
Tịch thu tài sản là tước một phần hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của người bị kết án để nộp vào ngân sách nhà nước. Tịch thu tài sản chỉ được áp dụng đối với người bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm an ninh quốc gia, luật tội phạm an ninh quốc gia, tội phạm ma túy hoặc tham nhũng hoặc tội khác do Bộ luật này quy định.
Điều này có tính đồng nhất cao đối với khoản 1 Điều 355 BLHS năm 2015 với hình phạt bổ sung “tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản“. Đây là nội dung mới, quan trọng được bổ sung với nhiệm vụ thu hồi tài sản thất thoát của tội phạm tham nhũng nói chung và lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản nói riêng, đặc biệt trong bối cảnh BLHS năm 1999 chưa quy định.