Để có thể thu thập chứng cứ, người bào chữa có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp chứng cứ liên quan.
BLTTHS năm 2015 quy định người bào chữa có quyền thu thập, đưa ra chứng cứ là một quy định tiến bộ đã bước đầu đáp ứng được yêu cầu của Cải cách tư pháp trên cơ sở nguyên tắc bình đẳng, công bằng của chủ thể gỡ tội với chủ thể buộc tội. Quyền thu thập, đưa ra chứng cứ của người bào chữa được quy định tại điểm h, khoản 1 điều 73: “Người bào chữa có quyền thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu”. Người bào chữa thu thập chứng cứ của ai? Ai phải có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho người bào chữa? và cách thức thu thập chứng cứ từ những người này như thế nào? BLTTHS năm 2015 quy định phạm vi những người mà người bào chữa thu thập chứng tại khoản 2 điều 88:
Để thu thập chứng cứ, người bào chữa có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa.
Trong trường hợp người bào chữa không thể thu thập được chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa từ những người này thì phải làm gì?. Khoản 3 điều 81 BLTTHS quy định: “Trường hợp không thể thu thập được chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa thì người bào chữa có thể đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành thu thập”. Không phải tài liệu, thông tin, đồ vật nào cũng được coi là chứng cứ. Chúng chỉ trở thành chứng cứ khi được thu thập theo quy định của BLTTHS. “Những gì có thật nhưng không được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì không có giá trị pháp lý và không được dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án hình sự”, khoản 2 điều 87 BLTTHS năm 2015. Việc quy định như vậy để loại trừ chứng cứ nhằm khắc phục những biểu hiện, tùy tiện của người có thẩm quyền THTT trong quá trình giải quyết vụ án. Thời điểm người bào chữa có thể thu thập chứng cứ là khi nào?. người bào chữa có thể thu thập chứng cứ từ bất kỳ thời điểm nào kể từ khi khởi tố vụ án đến sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Bên cạnh việc thu thập chứng cứ BLTTHS năm 2015 còn quy định về thời điểm đưa ra chứng cứ của người bào chữa tại khoản 2 điều 81:
Tùy từng giai đoạn tố tụng, khi thu thập được chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa, người bào chữa phải kịp thời giao cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để đưa vào hồ sơ vụ án. Việc giao, nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật phải được lập biên bản theo quy định tại Điều 133 của Bộ luật này.
Từ các quy định trên, người bào chữa thực hiện quyền thu thập, đưa ra chứng cứ theo cách thức sau:
Mục lục bài viết
- 1 1. Thực hiện quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa:
- 1.1 1.1. Thu thập chứng cứ của người bào chữa thông qua nhóm quyền theo quy định tại Khoản 1 điều 73 BLTTHS năm 2015:
- 1.2 b. Thu thập chứng cứ của người bào chữa thông qua nhóm quyền theo quy định tại Khoản 2 điều 88 BLTTHS năm 2015:
- 1.3 1.3. Thực hiện quyền thu thập chứng cứ thông qua hoạt động xem xét tại chỗ, xem xét vật chứng:
- 2 2. Hình thức thực hiện quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa:
- 3 3. Cách thức thực hiện quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa
1. Thực hiện quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa:
1.1. Thu thập chứng cứ của người bào chữa thông qua nhóm quyền theo quy định tại Khoản 1 điều 73 BLTTHS năm 2015:
– Thực hiện quyền thu thập chứng cứ thông qua quyền gặp, hỏi người bị buộc tội. Thông thường việc gặp, hỏi người bị buộc tội ở hai trường hợp: Thứ nhất, người bị buộc tội không bị áp dụng biện pháp tước tự do thì việc gặp, hỏi để thu thập những thông tin về vụ án, thông tin liên quan đến trách nhiệm dân sự, bồi thường thiệt hại... hoặc những tài liệu chứng cứ phục vụ cho công tác bào chữa, để bảo vệ cho người bị buộc tội vô tội hoặc những tình tiết giảm nhẹ TNHS cho họ khá thuận lợi hầu như không gặp khó khăn gì.
Thứ hai, trường hợp người bị buộc tội đang bị tạm giữ, tạm giam thì người bào chữa ngoài việc thực hiện những quy định của BLTTHS năm 2015 còn phải tuân thủ các quy định của Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015 về việc gặp, hỏi người bị buộc tội. Mặc dù luật Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015 quy định tại Khoản 3 điều 22: “Người bào chữa được gặp người bị tạm giữ, người bị tạm giam để thực hiện bào chữa theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và Luật này tại buồng làm việc của cơ sở giam giữ hoặc nơi người bị tạm giữ, tạm giam đang khám bệnh, chữa bệnh”...: ở trường hợp này thì ngoài việc hỏi thông tin về vụ án, làm rõ một số vấn đề liên quan đến thông tin về nhân thân thì vấn đề thu thập chứng cứ dường như là không có vì khi mới bị tạm giữ, tạm giam thì người bị buộc tội dường như không có bất kỳ một chứng cứ hay tài liệu nào.
– Thực hiện quyền thu thập chứng cứ, thông tin của vụ án thông qua quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can của người bào chữa. Điểm b, khoản 1 điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định:
Có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can.
Quy định này, khẳng định quyền được hỏi người bị buộc tội sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kết thúc đó là quyền đương nhiên của người bào chữa. Đây cũng là một tiến bộ đáng kể được pháp luật tố tụng quy định dành quyền đó cho người bào chữa chứ không phụ thuộc vào sự cho phép của người tiến hành tố tụng mà BLTTHS năm 2003 đã quy định. Tuy nhiên, sự có mặt của người bào chữa trong ở trường hợp này thường mang tính chất giám sát việc lấy lời khai, hỏi cung hơn là thu thập chứng cứ bởi các thông tin đưa ra trong các buổi hỏi cung sẽ được sắp xếp hỏi theo hướng buộc tội của Điều tra viên, do đó thông tin mà NCB nhận được thường rời rạc và không có logic.
– Thực hiện quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa thông qua các hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt động điều tra khác. Đây có lẽ là những hoạt động mà người bào chữa được tiếp xúc trực tiếp với những lời khai nhiều chiều từ hoạt động đối chất, nhận dạng ... BLTTHS năm 2015 quy định tại Điểm c, khoản 1 điều 73 người bào chữa có quyền “có mặt trong hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này”. Thông qua những hoạt động này, người bào chữa tiếp cận được thông tin, diễn biến hay vị trí vai trò của người bị buộc tội trong vụ án một cách khá chi tiết hoặc diễn biến của chuỗi hành vi phạm tội của người bị buộc tội trong vụ án. Những thông tin thu thập được từ việc tham gia các hoạt động này thường sẽ logic và khá đầy đủ. Qua thông tin thu nhận được tự phục vụ cho việc thực hiện kế hoạch thu thập chứng cứ phục vụ việc bào chữa từ nhiều phía, đa chiều và nhiều nguồn chứng cứ để thu thập.
– Thực hiện quyền thu thập chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu của người bào chữa được quy định tại điểm h, khoản 1 điều 73 BLTTHS năm 2015 người bào chữa có quyền: “Thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu”. Đây là một quyền được quy định trực tiếp cho người bào chữa mà không phụ thuộc vào người tiến tố tụng như hai trường hợp trên. người bào chữa thực hiện quyền thu thập chứng cứ trong suốt quá trình giải quyết vụ án từ khi được vào sổ đăng ký bào chữa đến khi bản án có hiệu lực pháp luật. Kết quả của việc thu thập chứng cứ của người bào chữa được đưa ra trong suốt quá trình giải quyết tùy thuộc vào thời gian hoặc giai đoạn tố tụng mà người bào chữa thu thập được và cuối cùng sẽ là tại phiên tòa xét xử. Tại đây người bào chữa, người bị buộc tội và bên buộc tội bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án và tranh tụng dân chủ, bình đẳng trước tòa án. Mọi chứng cứ, tình tiết có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa và Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa.
– Thực hiện thu thập chứng cứ của người bào chữa thông qua quyền “Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá” được quy định tại (Điểm i, khoản 1 điều 73). Để đánh giá chứng cứ theo đúng trình tự quy định của pháp luật được quy định tại khoản 1 Điều 108 BLTTHS năm 2015:
Mỗi chứng cứ phải được kiểm tra, đánh giá để xác định tính hợp pháp, xác thực và liên quan đến vụ án. Việc xác định những chứng cứ thu thập được phải bảo đảm đủ để giải quyết vụ án hình sự.
Ngoài ra, người bào chữa có quyền trình bày nhận xét của mình về vật chứng:
Kiểm sát viên, người bào chữa, người khác tham gia phiên tòa có quyền trình bày nhận xét của mình về vật chứng. Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự có thể hỏi thêm người tham gia phiên tòa về những vấn đề có liên quan đến vật chứng (điều 312), khi vật chứng được đưa ra xem xét tại phiên tòa hoặc đến xem xét tại chỗ những vật chứng không thể đưa đến phiên tòa được. Hoặc có quyền nhận xét về báo cáo, tài liệu, kết luận định giá, kết luận giám định của cơ quan, tổ chức về những tình tiết của vụ án do đại diện cơ quan, tổ chức đó trình bày và hỏi thêm người đại diện của cơ quan, tổ chức, người khác tham gia phiên tòa về những vấn đề liên quan đến báo cáo, tài liệu đó khi thấy tài liệu, báo cáo đó có liên quan đến người bị buộc tội.
– Thực hiện quyền thu thập chứng cứ thông qua quyền đọc, ghi chép và sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án. Điểm 1, khoản 1 điều 73 quy định người bào chữa có quyền: “Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa từ khi kết thúc điều tra”. Việc tiếp cận các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án là điều kiện để người bào chữa tổng hợp các thông tin, tình tiết của vụ án với những thông tin mà người bào chữa đã thu thập. Tiếp theo là đối chiếu, so sánh những chứng cứ mà người bào chữa đã giao nộp với những chứng cứ của cơ quan, người có thẩm quyền THTT đã thu thập. Sau đó, từ những tài liệu, chứng cứ đang có trong hồ sơ vụ án đã công khai giúp người bào chữa và người bị buộc tội xem xét đánh giá để có ý kiến về những chứng cứ đó kịp thời tới Viện kiểm sát. Cuối cùng, người bào chữa kịp thời thu thập những chứng cứ còn thiếu mà trong những lần thu thập trước chưa rõ hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác chưa cung cấp hoặc người bào chữa chưa thu thập.
– Thực hiện quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa thông qua quyền: “Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa” (Điểm m, khoản 1 điều 73). Giai đoạn xét xử được xem là giai đoạn cuối của quá trình tố tụng để giải quyết vụ án, vì thế mà người bào chữa bằng quyền tham gia hỏi của mình “Khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tòa hỏi trước sau đó quyết định để Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện việc hỏi” (Khoản 2 Điều 307) để kiểm chứng lại tính xác thực, tính có liên quan của chứng cứ mà người bào chữa đã thu thập. Đối với các tài liệu là kết luận giám định hoặc định giá tài sản người bào chữa có thể đề nghị Hội đồng xét xử yêu cầu người giám định, người định giá tài sản trình bày kết luận của mình về vấn đề được giám định, định giá tài sản. người bào chữa có quyền nhận xét về kết luận giám định, định giá tài sản, được hỏi những vấn đề chưa rõ hoặc mâu thuẫn trong kết luận giám định, định giá tài sản hoặc có mâu thuẫn với những tình tiết khác của vụ án. Ngoài ra, người bào chữa thông qua quyền được hỏi tại phiên tòa người bào chữa có thể hỏi những người THTT trong trường hợp bị cáo thay đổi lời khai trước đây ở CQĐT, VKS do bị ép cung, mớm cung hoặc dùng nhục hình để bị cáo phải khai. Khi tham gia hỏi những người tham gia tố tụng tại phiên tòa còn là cơ hội để người bị buộc tội xác thực và liên kết lại chuỗi sự kiện có hoặc không có sự tham gia của họ hay người bào chữa hỏi những vấn đề liên quan tới nguyên nhân, điều kiện, hoàn cảnh hay trách nhiệm của người bị buộc tội trong vụ án thì người bị buộc tội có cơ hội được trình bày những quan điểm, nhận thức và đưa ra lý do mình thực hiện hành vi.
Sau phần hỏi theo trình tự của một phiên tòa đến phần tranh luận (khoản 1, điều 322) sẽ được các bên tranh luận trình bày ý kiến, đưa ra chứng cứ và lập luận của mình để đối đáp với kiểm sát viên đại diện cho bên buộc tội và cũng có thể sẽ đối đáp với người bào chữa đồng nghiệp để bảo vệ chứng cứ, tài liệu và quan điểm bào chữa cho bị cáo. Cùng với người bào chữa, bị cáo có thể bổ sung hoặc tranh luận với bên buộc tội và những người tham gia tố tụng khác.
b. Thu thập chứng cứ của người bào chữa thông qua nhóm quyền theo quy định tại Khoản 2 điều 88 BLTTHS năm 2015:
– Người bào chữa thu thập chứng cứ thông qua quyền được gặp bị hại theo quy định tại Khoản 2 điều 88). Thông thường những trường hợp gặp bị hại sẽ là thay mặt cho người bị buộc tội để tiếp xúc động viên hoặc đàm phán giải quyết vấn đề thuộc trách nhiệm dân sự như bồi thường, khắc phục hậu quả. Tuy nhiên, tùy từng trường hợp cụ thể mà người bào chữa có thể thu thập chứng cứ liên quan tới việc bào chữa gỡ tội cho người bị buộc tội. Việc gặp bị hại để thu thập chứng cứ gỡ tội đối với một số vụ án hình sự thuộc nhóm các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí có trường hợp không những không thu thập được chứng cứ mà bị hại từ chối gặp người bào chữa. Những trường hợp này đòi hỏi người bào chữa phải có kỹ năng hành nghề tốt, kiên trì và chia sẻ thì sẽ thu thập được chứng cứ rất có lợi cho người bị buộc tội.
– Người bào chữa thu thập chứng cứ thông qua quyền được gặp người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án (Khoản 2 điều 88). Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự thì những người làm chứng, người khác biết về vụ án có vai trò rất quan trọng trong việc đưa ra lời khai, lời trình bày làm rõ hơn những tình tiết của vụ án. (1) Đối với người làm chứng thì họ là những người tham gia tố tụng (khoản 12 điều 55). Từ vai trò quan trọng nhất là tính khách quan và tính liên quan của những thông tin, tài liệu, đồ vật. Do người làm chứng là người biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập đến làm chứng (khoản 1 điều 66). Vì thế, người bào chữa xem những người này như một kênh để thu thập chứng cứ có giá trị cao để phục vụ cho việc bào chữa, tuy nhiên người bào chữa cũng phải hết sức lưu ý khi tiếp nhận những chứng cứ, thông tin để so sánh, đối chiếu với thông tin do người làm chứng đã cung cấp cho cơ quan có thẩm quyền THTT để kịp thời phát hiện những mâu thuẫn (nếu có). (2) Đối với những người khác biết về vụ án cũng là một kênh thông tin mà người bào chữa cần thu thập. Kênh thông tin này khá đa dạng, có thể thông tin mà người đó biết được trực tiếp về vụ án, cũng có thể thông tin mà người đó biết được là gián tiếp do người khác thông tin hoặc kể lại. Để thu thập được chứng cứ từ họ người bào chữa sẽ phải tốn nhiều công sức, thời gian hơn để tìm kiếm, thu thập thông tin về người biết về vụ án. Những chứng cứ thu thập được từ những người này cũng có giá trị chứng minh cao phục vụ cho việc bào chữa, mặc dù ở nhiều vụ án có khi người biết về vụ án không hợp tác với người bào chữa.
– Thực hiện quyền thu thập chứng cứ thông qua quyền đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa.
Các cơ quan, tổ chức và cá nhân lưu giữ thông tin liên quan đến vụ án nói chung và liên quan đến việc bào chữa nói riêng trong hầu hết các vụ án hình sự. Thứ nhất, đây là một kênh để người bào chữa thu thập chứng cứ phục vụ cho việc bào chữa có giá trị chứng minh rất cao và thông tin chính xác. Thứ hai, chứng cứ thu thập được từ cơ quan, tổ chức thường được cơ quan có thẩm quyền THTT lưu tâm xem xét, đánh giá hơn là những chứng cứ thu thập được từ các cá nhân. Từ đó, người bào chữa sẽ ưu tiên thu thập chứng cứ liên quan đến việc bào chữa từ những cơ quan, tổ chức này và sử dụng rất có hiệu quả trong công tác bào chữa ở các giai đoạn tố tụng, đặc biệt ở tại phiên tòa xét xử. Tuy nhiên, không phải cơ quan, tổ chức nào đều hợp tác và cung cấp chứng cứ cho người bào chữa, họ từ chối làm việc, từ chối cung cấp chứng cứ hoặc nhận được đề nghị nhưng không trả lời, không hồi âm với muôn vàn lý do nhưng trong đó có lý do chính mà người bào chữa không thể trách cứ được đó là họ không có nghĩa vụ phải cung cấp cho người bào chữa. Đây là một vướng mắc cần phải được sớm tháo gỡ để cho việc bào chữa của người bào chữa ngày một tốt hơn trong hoạt động hành nghề của mình.
1.3. Thực hiện quyền thu thập chứng cứ thông qua hoạt động xem xét tại chỗ, xem xét vật chứng:
– Thứ nhất, hoạt động xem xét tại chỗ: “Khi xét thấy cần thiết, Hội đồng xét xử có thể cùng với kiểm sát viên, người bào chữa, người khác tham gia phiên tòa đến nơi đã xảy ra tội phạm hoặc địa điểm khác có liên quan đến vụ án” (điều 314), thông qua hoạt động xem xét tại chỗ nơi đã xảy ra tội phạm hoặc địa điểm khác có liên quan đến vụ án người bào chữa có cơ hội để thu thập các chứng cứ liên quan đến những tình tiết sẽ sử dụng để tranh tụng với bên buộc tội mà trước đó không thể thu thập hoặc không có điều kiện thu thập. Qua việc xem xét tại chỗ, người bào chữa sẽ thẩm định lại các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án do cơ quan THTT thu thập với chứng cứ do người bào chữa thu thập. Khi tham gia xem xét tại chỗ nơi xảy ra tội phạm người bào chữa còn có thể thu thập được các chứng cứ mà trước đó cơ quan THTT chưa thu thập hay đã thu thập nhưng còn thiếu, sót, chưa đầy đủ. Ngoài ra, khi tham gia xem xét tại chỗ trực tiếp vật chứng tại nơi đã xảy ra tội phạm hoặc địa điểm khác liên quan đến vụ án người bào chữa có quyền trình bày ý kiến của mình về vật chứng. Hơn nữa, sau khi đã trực tiếp xem xét tại chỗ khi trở lại phiên tòa người bào chữa còn có quyền quyền trình bày nhận xét của mình về nơi đã xảy ra tội phạm hoặc địa điểm khác có liên quan đến vụ án.
– Thứ hai, hoạt động xem xét vật chứng. Vật chứng của vụ án có thể là vật chứng, ảnh hoặc biên bản xác nhận vật chứng được đưa ra xem xét tại phiên tòa nhưng cũng có khi các vật chứng đó nếu chỉ mô tả thông qua hình ảnh và biên bản sẽ không thể hiện hết được những khía cạnh hay góc độ quan sát dẫn đến việc đánh giá chứng cứ có thể không toàn diện và đầy đủ. Chính vì vậy, “Khi cần thiết, Hội đồng xét xử có thể cùng kiểm sát viên, người bào chữa, người khác tham gia phiên tòa đến xem xét tại chỗ những vật chứng không thể đưa đến tòa được”. Như đã được phân tích ở đoạn thứ nhất ở trên, việc xem xét tại chỗ vật chứng cho người bào chữa cơ hội được tiếp cận vật chứng từ góc độ bào chữa hoặc có thể tìm thấy sự vật khác với hình ảnh đang có trong hồ sơ vụ án hay phát hiện thêm được những tình tiết mới liên quan đến việc bào chữa. Mặt khác, làm căn cứ để khi trở lại phiên tòa người bào chữa thực hiện các quyền của mình như: trình bày nhận xét của mình về vật chứng, hỏi thêm những người tham gia phiên tòa về những vấn đề có liên quan đến vật chứng.
2. Hình thức thực hiện quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa:
2.1. Tự người bào chữa thu thập chứng cứ:
Để thực hiện việc bào chữa NBC không chỉ căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu mà cơ quan THTT đã thu thập được mà còn phải tự mình thu thập tài liệu, chứng cứ có liên quan đến việc bào chữa. Nếu như chỉ dựa vào chứng cứ mà cơ quan THTT thu thập được thì NBC sẽ dễ bị ảnh hưởng của kết quả điều tra, có thể không có được những tình tiết có lợi cho người bị buộc tội hoặc sẽ có cái nhìn về vụ án theo hướng kết luật của cơ quan điều tra. Vì vậy, pháp luật TTHS quy định cho NBC các quyền và quyền thu thập chứng cứ để NBC được tự mình thực hiện các hoạt động thu thập chứng cứ để phục vụ công việc bào chữa được tốt nhất, đồng thời góp phần làm rõ sự thật khách quan của vụ án. NBC dù thực hiện quyền thu thập chứng cứ của mình ở giai đoạn nào trong tiến trình tố tụng giải quyết vụ án thì cũng không tách rời các hình thức thu thập chứng cứ.
– Hình thức thu thập chứng cứ chủ động
Để đảm bảo tính chính xác, khách quan của chứng cứ việc thu thập chứng cứ phải thực hiện theo trình tự, thủ tục mà BLTTHS quy định. Người bào chữa thực hiện việc thu thập chứng cứ theo quy định tại khoản 2 điều 88 “Để thu thập chứng cứ, người bào chữa có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa”. Qua khảo sát bằng phiếu hỏi dành cho người bào chữa là Luật sư, Trợ giúp viên pháp lý và Người THTT cùng với thu thập từ thực tiễn hoạt động nghề nghiệp của NBC cho người bị buộc tội trong quá trình tố tụng hình sự thì quyền thu thập chứng cứ chủ động đối với người mà mình bào chữa được chia thành hai trường hợp, đó là:
+ Thực hiện quyền thu thập chứng cứ chủ động trực tiếp
++ Là việc NBC trực tiếp yêu cầu cung cấp chứng cứ đối với người mình bào chữa. Việc thu thập chứng cứ từ người mà NBC thông thường khá thuận lợi và dễ dàng. Dễ dàng thu thập hơn trong trường hợp người bị buộc tội là bị can bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” thì việc gặp, hỏi, nghe họ trình bày những vấn đề liên quan đến vụ án như: hành vi phạm tội, vai trò, vị trí của họ trong vụ án v.v ... và thu thập chứng cứ hoặc thông qua người bị buộc tội người bào chữa biết được những người làm chứng, những người khác biết về vụ án đang nắm giữ những chứng cứ, đồ vật, tài liệu để có kế hoạch và phương án thu thập. Tuy nhiên, việc thu thập là rất khó khăn và không dễ dàng thu thập được chứng cứ nếu người mà họ bào chữa đang bị tạm giam trong quá trình điều tra vì ngoài lời khai khi làm việc thì họ không được giữ tài liệu hay chứng cứ gì nên không thể cung cấp cho người bào chữa. Thông thường các chứng cứ mà NBC thu thập được trong giai đoạn này sẽ “chậm” so với cơ quan điều tra nên chủ yếu được sử dụng trong giai đoạn truy tố hoặc xét xử.
++ Là việc NBC chủ động trực tiếp đề nghị cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ, đồ vật, dữ liệu điện tử, những tình tiết làm sáng tỏ vụ án liên quan đến người bị buộc tội mà mình bào chữa.
+ Thực hiện quyền thu thập chứng cứ chủ động gián tiếp
Là việc NBC chủ động thực hiện quyền thu thập chứng cứ từ người cần thu thập thông qua việc đề nghị Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hay Tòa án thu thập những chứng cứ của vụ án, những chứng cứ này liên quan tới việc gỡ tội cho người bị buộc tội, bị can, bị cáo và liên quan tới việc bào chữa của NBC.
– Thực hiện quyền thu thập chứng cứ không chủ động của người bào chữa
Ngược với quyền thu thập chứng cứ chủ động thì quyền thu thập chứng cứ không chủ động của NBC thường thấy là do những người khác biết về vụ án chủ động cung cấp cho NBC tại nơi làm việc của người bào chữa hoặc tại phiên tòa – việc cung cấp các chứng cứ tại phiên tòa của những người khác biết về vụ án chủ yếu là chứng cứ gián tiếp nhưng cũng có không ít trường hợp là chứng cứ trực tiếp, có trường hợp là chứng cứ gốc.
2.2. Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ:
Ngoài quyền tự mình thu thập chứng cứ, tài liệu, đồ vật pháp luật TTHS còn quy định trường hợp NBC không thể thu thập được chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa thì NBC có thể đề nghị cơ quan có thẩm quyền THTT thu thập (khoản 3 Điều 81 BLTTHS năm 2015). Nếu trong trường hợp NBC đã dùng hết các biện pháp để thực hiện quyền thu thập chứng cứ của mình mà vẫn không thu thập được chứng cứ của cơ quan, tổ chức thì phải nhờ đến sự giúp đỡ thu thập chứng cứ này từ cơ quan có thẩm quyền THTT.
Đối với việc thu thập chứng cứ, tài liệu từ nước ngoài thì việc đề nghị cơ quan có thẩm quyền THTT thu thập là biện pháp duy nhất và hiệu quả nhất. Do, giá trị pháp lý của tài liệu, đồ vật thu thập được thông qua hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự giữa nhà nước Việt Nam và nhà nước nơi chứng cứ đó được thu thập. Tài liệu, đồ vật do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thu thập theo ủy thác tư pháp của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam hoặc tài liệu, đồ vật do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài gửi đến Việt Nam để ủy thác truy cứu trách nhiệm hình sự có thể được coi là chứng cứ. Trường hợp tài liệu, đồ vật này có đặc điểm quy định tại Điều 89 của Bộ luật này thì có thể được coi là vật chứng (điều 494 BLTTHS năm 2015). Ví dụ, các tài liệu mà thông qua ủy thác tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị xác minh Công ty Lincoln Asset Management tại Singapore và Philipines trong vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản của do Wang Jian Quan Martin quốc tịch Singapore thực hiện .
Có một thực tế hiện nay NBC còn gặp nhiều khó khăn, cản trở khi thu thập chứng cứ từ phía các cơ quan, tổ chức nhà nước. Có một lý trở ngại chính mà NBC không thu thập được từ các cơ quan, tổ chức này đó là thiếu quy định của pháp luật về nghĩa vụ cung cấp chứng cho NBC hoặc bằng một chế tài hình sự như quy định tại điều 383 BLHS năm 2015.
3. Cách thức thực hiện quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa
NBC có thể thực hiện quyền thu thập chứng cứ như thế nào? những loại chứng cứ nào? (1) Chứng cứ trực tiếp và chứng cứ gián tiếp; (2) Chứng cứ gốc, chứng cứ thuật lại; (3) chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội; (4) Chứng cứ vật chất và chứng cứ phi vật chất. Như đã trình bày ở phần trên, việc thực hiện quyền thu thập chứng cứ của NBC thông qua hoạt động thu thập chứng cứ.
– Cách thực thu thập chứng cứ tại địa phương nơi cư trú của người bị buộc tội
Thực tế hiện nay, trong quá trình giải quyết ở nhiều vụ án hình sự thì NBC chưa thật sự áp dụng những quy định của BLTTHS về quyền thu thập chứng cứ hay ít sử dụng quyền đó thông qua các cách thức thu thập chứng cứ. Sở dĩ có hiện tượng bỏ quyền này là vì PLTTHS chưa quy định nghĩa vụ buộc phải cung cấp chứng cứ cho NBC. Đối với trường hợp khi thu thập chứng cứ là lời trình bày của người làm chứng, người khác biết về vụ án cũng khó khăn rất nhiều vì NBC có áp dụng, thực hiện quyền của NBC tốt đến đâu đi chăng nữa đều phụ thuộc vào những người cần thu thập chứng cứ có đồng ý cung cấp hay không. Ngoài ra, cách thức thực hiện quyền của người bào chữa khi đề nghị hoặc yêu cầu UBND xã/phường, thị trấn phối hợp trong việc thu thập chứng cứ cũng không dễ dàng gì. Tuy nhiên, để có sự phối hợp của cơ quan, hợp tác của cá nhân thì quyền thu thập chứng cứ của NBC vẫn được thực hiện. Dưới đây là những cách thức thực hiện quyền thu thập chứng cứ của NBC tại nơi người làm chứng, người biết về vụ án cư trú.
+ Văn bản trình bày ý kiến hay ghi nhận lời khai của người làm chứng phải được lập dưới dạng biên bản và có sự tham gia hay xác nhận của địa phương là Ủy ban nhân dân xã hoặc phường nơi người đó cư trú.
+ Hình thức ghi hình có âm thanh hoặc ghi âm được lập thành văn bản (biên bản) khi có sự tham gia hay xác nhận của cơ quan/ hay Ủy ban nhân dân xã phường nơi người đó cư trú.
– Cách thức thu thập chứng cứ tại Văn phòng Thừa phát lại Kể từ khi Thừa phát lại được phép hoạt động và đã trở thành một chế định bổ trợ tư pháp mới hỗ trợ cho các hoạt động của các cơ quan tư nhân được người dân và xã hội đón nhận. Về lập vi bằng đã đáp ứng yêu cầu ngày càng nhiều của người dân trong đời sống dân sự, giúp người dân bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Khi NBC thực hiện việc thu thập chứng cứ cho việc bào chữa từ người làm chứng, người khác biết về vụ án tại Văn phòng thừa phát lại sẽ tiện lợi cho người dân, tâm lý làm việc thoải mái hơn và bớt sự căng thẳng hay tâm lý “Bút sa – gà chết”. Mặt khác, ngoài những tiện lợi và thoải mái khi làm việc tại Văn phòng thừa phát lại đối với người làm chứng, người khác biết về vụ án thì các văn bản được thu thập thông qua hình thức lập vi bằng cũng sẽ giúp cho các chứng cứ mà NBC thu thập hay cung cấp được khách quan và đúng quy định của pháp luật.
– Cách thức thu thập chứng cứ tại Phòng công chứng
Gần như tương tự với cách thức thu thập chứng cứ của NBC tại Văn phòng Thừa phát lại thì việc lựa chọn nơi ghi nhận sự kiện cung cấp chứng cứ của người làm chứng, người khác biết về vụ án hoặc các tài liệu, chứng cứ là giấy tờ nhân thân được phòng công chứng chứng thực sẽ giúp cho các tài liệu, chứng cứ này có giá trị xem xét, đánh giá và sử dụng cao hơn những tài liệu, chứng cứ mà những người cung cấp tự lập mà không được chứng thực, ghi nhận, xác nhận của cơ quan, tổ chức.
– Cách thức thu thập chứng cứ tại tổ chức hành nghề Luật sư/ trung tâm trợ giúp pháp lý
Chứng cứ được thu thập từ người làm chứng, người khác biết về vụ án tại Tổ chức hành nghề luật sư hay Trung tâm trợ giúp pháp lý thường được sử dụng đối với các vụ án hình sự xảy ra tại các địa phương, nơi mà người bào chữa là thành viên của Tổ chức hành nghề luật sư hoặc Trung tâm trợ giúp pháp lý. Việc thu thập các chứng cứ tại Tổ chức hành nghề luật sư hay/hoặc Trung tâm trợ giúp pháp lý sẽ là thuận lợi và thuận tiện nhất cho cả người thu thập và người cung cấp chứng cứ.
– Thu thập chứng cứ từ nước ngoài
Trường hợp người bị buộc tội là người có quốc tịch nước ngoài thì việc thu thập chứng cứ gỡ tội từ nước ngoài thì cần phải được hợp pháp hóa lãnh sự hoặc phải được xác nhận của các cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam nơi nước có chứng cứ thu thập. Ví dụ, tài liệu về nhân thân, tài sản của bị cáo ở nước ngoài được người bào chữa thu thập trong vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra trên địa bàn thành phố Hà Nội do bị cáo Wang Jian Quan Marten thực hiện đều phải được hợp pháp hóa lãnh sự thì mới được tòa án chấp nhận.