Nội dung chính về thẩm quyền dân sự của Tòa án theo loại việc về tranh chấp kinh doanh, thương mại.
Nội dung chính về thẩm quyền dân sự của
- Thẩm quyền dân sự của tòa đối với các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh thương mại giữa các tổ chức, cá nhân có đăng ký kinh doanh.( Khoản 1 Điều 29 BLTTDS)
Thứ nhất, Tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể là cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh (các bên tranh chấp đều có đăng ký kinh doanh). Theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP – TANDTC “cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh là cá nhân, tổ chức đã được cơ quan có thẩm quyền đăng ký kinh doanh cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật”. Nghị quyết cũng chỉ rõ những chủ thể này bao gồm: cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác; doanh nghiệp (theo Luật Doanh nghiệp và các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp) ; hợp tác xã, liên hợp tác xã và các cá nhân, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, các tranh chấp này phải có mục đích lợi nhuận. Khái niệm mục đích lợi nhuận được hiểu là mong muốn của cá nhân, tổ chức đó thu được lợi nhuận mà không phân biệt có thu được hay không thu được lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh thương mại đó trên thực tế hay không. Hoạt động kinh doanh, thương mại là việc thực hiện một hoặc nhiều hành vi thương mại. Hoạt động kinh doanh thương mại không chỉ là hoạt động trực tiếp theo đăng ký kinh doanh, thương mại mà còn bao gồm các hoạt động khác phục vụ thúc đẩy, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh thương mại.
Thứ ba, các tranh chấp này phải thuộc 14 lĩnh vực được ghi nhận tại khoản 1 điều 29 BLTTDS gồm: mua bán hàng hóa; cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý; ký gửi; thuê, cho thuê, thuê mua; xây dựng; tư vấn, kỹ thuật; vẫn chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thủy nội địa; vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng không, đường biển; mua bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác; đầu tư, tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác.
- Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
Đối với các tranh chấp quy định tại khoản 2 điều 29 BLTTDS thì không nhất thiết đòi hỏi cá nhân, tổ chức phải có đăng ký kinh doanh mà chỉ đòi hỏi cá nhân, tổ chức đều có mục đích lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh, thương mại; nếu chỉ có một bên có mục đích lợi nhuận, còn bên kia không có mục đích lợi nhuận thì tranh chấp dó là tranh chấp về dân sự quy định tại khoản 4 Điều 25 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ được xác định là một dạng của tài sản nhưng nó là một loại tài sản đặc biệt bởi nó mang tính phi vật chất, và cũng không dễ dàng trong việc xác định giá trị của loại tài sản này, thông thường thì nó có giá trị rất cao. Đồng thời, quyền sở hữu trí tuệ được đánh giá là một nhân tố quan trọng trong nền kinh tế hiện đại chính vì vậy, pháp luật ở tất cả các quốc gia trên thế giới, đều đã xây dựng và ban hành luật sở hữu trí tuệ. Ngoài ra pháp luật tố tụng dân sự cũng góp phần tích cực trong việc bảo vệ loại tài sản vô hình này, cụ thể luật tố tụng dân sự đã xây dựng một quy định với nội dung xác định việc giải quyết các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận sẽ thuộc thẩm quyền dân sự theo loại việc của tòa án khoản 2 điều 29 BLTTDS. Với quy định này có thể thấy điều kiện để tranh chấp về quyền sở hữu, chuyển giao công nghệ giữa các tổ chức, cá nhân với nhau thuộc thẩm quyền dân sự theo loại việc của tòa án là khi tranh chấp này có mục đích lợi nhuận. Như vậy với dạng tranh chấp này pháp luật không yêu cầu các bên chủ thể phải có đăng ký kinh doanh mà chỉ cần tranh chấp trong lĩnh vực này có mục đích lợi nhuận là sẽ thuộc thẩm quyền dân sự của tòa án. Điều kiện xác định tranh chấp thuộc thẩm quyền của tòa án. Quyền sở hữu công nghệ đã được xác lập theo quy định tại khoản 3 Điều 6 Luật Sở hữu trí tuệ và Điều 6 Nghị định 103/2006/NĐ-CP.
Đối tượng sở hữu công nghiệp: xác định cụ thể tranh chấp liên quan đến đối tượng nào,( Sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu…) để xác định căn cứ xác lập quyền sở hữu công nghiệp ( phải qua thủ tục đăng ký hay không?)
Phạm vi bảo hộ: đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý cần phải căn cứ vào văn bằng bảo hộ được cấp choc ho từng loại đối tượng sở hữu công nghiệp: đối với tên thương mại, bí mật kinh doanh thì theo quy định tại khoản 2, 3, điều 16 của Nghị định 103/2006/NĐ-CP.
Thời hạn bảo hộ: được xác định căn cứ vào thời hạn hiệu lực của văn bằng bảo hộ quy định tại điều 93 Luật SHTT. Trường hợp hiệu lực của văn bằng bảo hộ bị chấm dứt hoặc bị hủy bỏ hiệu lực thì quyền sở hữu công nghiệp cũng chấm dứt. quyền của chủ thể quyền sở hữu công nghiệp không còn được nhà nước và pháp luật bảo hộ. Tòa án không thụ lý đơn khởi kiện nếu hành vi xâm phạm xảy ra vào thời điểm văn bằng bảo hộ không còn hiệu lực hoặc đối tượng quyền sở hữu công nghiệp không còn trong thời hạn được bảo hộ.
- Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty. (Khoản 3 Điều 29 BLTTDS)
Theo quy định tại khoản 5 Điều 6 Nghị quyết 03/2012/ NQ – HĐTP đối với các tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty quy định tại khoản 3 Điều 29 của BLTTDS bao gồm:
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
– Các tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty là các tranh chấp về phần vốn góp của mỗi thành viên đối với công ty (thông thường phần vốn góp đó được tính bằng tiền, nhưng cũng có thể bằng hiện vật hoặc bằng giá trị quyền sở hữu công nghiệp); về mệnh giá cổ phiếu và số cổ phiếu phát hành đối với mỗi công ty cổ phần; về quyền sở hữu một phần tài sản của công ty tương ứng với phần vốn góp vào công ty; về quyền được chia lợi nhuận hoặc về nghĩa vụ chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp vào công ty; về yêu cầu công ty đổi các khoản nợ hoặc thanh toán các khoản nợ của công ty, thanh lý tài sản và thanh lý các hợp đồng mà công ty đã ký kết khi giải thể công ty; về các vấn đề khác liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
– Các tranh chấp giữa các thành viên của công ty với nhau là các tranh chấp giữa các thành viên của công ty về trị giá phần vốn góp vào công ty giữa các thành viên của công ty; về việc chuyển nhượng phần vốn góp vào công ty giữa các thành viên của công ty hoặc về việc chuyển nhượng phần vốn góp vào công ty của thành viên công ty đó cho người khác không phải là thành viên của công ty; về việc chuyển nhượng cổ phiếu không ghi tên và cổ phiếu có ghi tên; về mệnh giá cổ phiếu, số cổ phiếu phát hành và trái phiếu của công ty cổ phần hoặc về quyền sở hữu tài sản tương ứng với số cổ phiếu của thành viên công ty; về quyền được chia lợi nhuận hoặc về nghĩa vụ chịu lỗ, thanh toán nợ của công ty; về việc thanh lý tài sản, phân chia nợ giữa các thành viên của công ty trong trường hợp công ty bị giải thể, về các vấn đề khác giữa các thành viên của công ty liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
Trong quá trình thực hiện các hướng dẫn trên, nếu giữa công ty với các thành viên của công ty hoặc giữa các thành viên của công ty có tranh chấp với nhau, nhưng tranh chấp đó không liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty mà chỉ liên quan đến các quan hệ khác như quan hệ lao động, quan hệ dân sự (ví dụ: Tranh chấp về bảo hiểm xã hội, về trợ cấp cho người lao động, về
- Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định.
Trường hợp này được quy định tại khoản 4 Điều 29 BLTTDS, trong thực tiễn có rất nhiều các tranh chấp phát sinh về kinh doanh, thương mại mà pháp luật không dự liệu hết được, chính vì vậy khi những tranh chấp về kinh doanh, thương mại không thuộc những tranh chấp được quy định tại các khoản 1, 2, 3 điều này thì sẽ áp dụng quy định này làm cơ sở để Tòa án giải quyết tranh chấp đó.