Nhân thân người phạm tội là một trong những yếu tố chủ quan, thuộc về bản chất của người phạm tội, phản ánh các đặc điểm tâm lý và đạo đức tiêu cực. Vậy nhân thân xấu là gì? Người có nhân thân xấu có được hưởng án treo hay không?
Mục lục bài viết
1. Nhân thân xấu là gì?
Trước tiên, yếu tố chủ quan thuộc bản thân của người phạm tội là một trong những yếu tố có vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình hình thành đặc điểm nhân thân của người phạm tội trên thực tế, chủ yếu đó là các đặc điểm liên quan đến khía cạnh tâm lý và đạo đức tiêu cực của người phạm tội, gắn liền với quá trình phát triển về tâm sinh lý, dưới sự tác động và ảnh hưởng trực tiếp của môi trường sống tiêu cực, ảnh hưởng của các tình huống cụ thể, khi đó con người có khả năng lựa chọn nhiều cách ứng xử khác nhau, tuy nhiên người ta lại chọn phương án hành xử tiêu cực, trái quy định của pháp luật. Nhìn chung thì có thể nói, nhân thân người phạm tội là tổng hợp những đặc điểm, dấu hiệu thể hiện bản chất của người phạm tội đó. Trong cơ chế hành vi của người phạm tội, nhân thân người phạm tội đóng vai trò vô cùng quan trọng, giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể luận giải ra các nguyên nhân vì sao người phạm tội lại thực hiện hành vi vi phạm pháp luật đó, từ đó xây dựng các biện pháp phòng ngừa phù hợp với từng nhóm người và từng nhóm tính cách.
Nhiều người hiện nay đặt ra câu hỏi: Nhân thân xấu là gì? Tuy nhiên, trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện nay, chưa có bất cứ điều luật hoặc văn bản nào giải thích cụ thể về khái niệm nhân thân xấu. Tuy nhiên trên thực tế, chúng ta hoàn toàn có thể đưa ra định nghĩa về nhân thân xấu. Đây là từ ngữ mà người dân Việt Nam dùng để ám chỉ một người có nhân thân không tốt trong quá khứ, người đó đã từng có tiền án, tiền sự (tức là đã từng phạm tội) và đã bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền phát hiện, xử phạt theo đúng quy định của pháp luật.
Pháp luật Việt Nam hiện nay thay vì dùng cũng từ nhân thân xấu, có nhiều điều luật đã nhắc đến cụm từ nhân thân của người phạm tội. Theo đó, nhân thân của người phạm tội là một phạm trù đặc biệt trong khía cạnh khoa học tội phạm, khoa học hình sự, khoa học điều tra tội phạm, khoa học tâm lý học tư pháp … và một số ngành khoa học khác. Nhân thân của người phạm tội là những đặc điểm, dấu hiệu đặc trưng, phản ánh rõ bản chất và tính cách của người phạm tội, những đặc điểm và dấu hiệu này tác động mạnh mẽ tới nhiều tình huống, hoàn cảnh khác nhau, từ đó tạo ra xử sự phạm tội của người phạm tội trên thực tế. Có thể kể đến một số đặc điểm liên quan đến nhân thân của người phạm tội như: độ tuổi, nghề nghiệp, thái độ trong quan hệ với những người xung quanh, trình độ văn hóa, hoàn cảnh gia đình, lối sống thực tế, đời sống kinh tế, thái độ chính trị, tôn giáo, ý thức pháp luật, tiền án tiền sự … như vậy có thể nói, những đặc điểm này hoàn toàn giúp cho con người có nguy cơ trở thành tội phạm cao hơn so với người khác, nó dễ dàng làm phát sinh ý định phạm tội của con người, thậm chí là thúc đẩy con người thực hiện một hành vi phạm tội nào đó.
2. Nhân thân xấu có được xử án treo không?
Căn cứ theo quy định tại Điều 2 của Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo (sửa đổi tại Nghị quyết 01/2022/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo), có quy định cụ thể về điều kiện để người bị kết án phạt tù có thể được hưởng án treo. Theo đó, người bị xử phạt tù có thể sẽ được xem xét cho hưởng án treo khi người đó đáp ứng được đầy đủ các điều kiện sau đây:
– Đã bị xử phạt tù không vượt quá khoảng thời gian 03 năm tù;
– Người bị xử phạt tù có nhân thân phù hợp với quy định của pháp luật, tức là ngoài lần phạm tội này thì người phạm tội đã chấp hành đầy đủ chính sách pháp luật, thực hiện và tuân thủ đầy đủ các nghĩa vụ của công dân tại nơi cư trú và nơi làm việc. Cụ thể như sau:
+ Đối với những người đã bị kết án tuy nhiên họ thuộc trường hợp được coi là không có án tích theo quy định của pháp luật hình sự, những người bị kết án tuy nhiên đã thực hiện thủ tục xóa án tích tại cơ quan có thẩm quyền, người đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị xử lý kỷ luật tuy nhiên tính đến ngày phạm tội, đã vượt quá thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc chưa bị xử lý kỷ luật theo quy định của pháp luật, nếu nhận thấy tính chất và mức độ của tội phạm mới chỉ thuộc trường hợp ít nghiêm trọng theo quy định của pháp luật hình sự, hoặc người phạm tội được coi là đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án hình sự, và có đầy đủ các điều kiện khác thì cũng có thể được cho hưởng án treo;
+ Đối với người bị kết án mà trong quá trình định tội, cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã sử dụng tình tiết “đã bị xử lý kỷ luật” hoặc “đã bị xử phạt vi phạm hành chính” hoặc “đã bị kết án” và đồng thời có đầy đủ các điều kiện khác thì cũng có thể được cho hưởng án treo;
+ Đối với những người bị kết án mà vụ việc đó được tách ra để giải quyết trong nhiều giai đoạn khác nhau, tách ra thành nhiều vụ án khác nhau, và có đầy đủ các điều kiện khác thì cũng sẽ có thể được cho hưởng án treo.
– Có từ hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho nên căn cứ theo quy định tại Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, đồng thời không có các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự căn cứ theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015. Trong trường hợp có các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật về hình sự, thì số tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cần phải có số lượng nhiều hơn số tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự từ 02 tình tiết trở lên, trong đó phải có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015;
– Người phạm tội có nơi cư trú rõ ràng, có địa điểm cụ thể, nơi làm việc ổn định để cơ quan có thẩm quyền, tổ chức có thẩm quyền dễ dàng giám sát và giáo dục. Tuy nhiên cần phải lưu ý, nơi cư trú rõ ràng của người phạm tội trong trường hợp này là nơi tạm trú hoặc nơi thường trú, cần phải có địa điểm xác định cụ thể theo quy định của pháp luật về cư trú, người được hưởng án treo sau khi được hưởng án treo sẽ về cư trú và sinh sống tại địa điểm đó. Đối với nơi làm việc, đó phải là nơi làm việc ổn định của người phạm tội, người phạm tội có thời gian làm việc tại địa điểm đó trong khoảng thời gian từ 01 năm trở lên theo
– Cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét thấy không cần phải áp dụng biện pháp bắt chấp hành hình phạt tù, người phạm tội hoàn toàn có khả năng tự cải tạo, việc cho họ hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội và không gây nguy hiểm cho cộng đồng, việc cho các đối tượng đó vừa dán treo cũng không ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự và an toàn xã hội.
Như vậy có thể nói, người bị xử phạt tù hoàn toàn có thể được xem xét cho hưởng án treo khi đáp ứng được đầy đủ các điều kiện nêu trên. Đối với điều kiện và nhân thân, pháp luật hiện nay không áp dụng điều kiện về nhân thân tốt hay nhân thân xấu. Thay vào đó là sẽ áp dụng điều kiện về nhân thân được quy định cụ thể tại khoản 2 Điều 2 của Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo (sửa đổi tại Nghị quyết 01/2022/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo), như đã phân tích nêu trên.
3. Những trường hợp không cho hưởng án treo hiện nay:
Những trường hợp không cho hưởng án treo hiện nay đang được thực hiện theo quy định tại Điều 3 của Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo (sửa đổi tại Nghị quyết 01/2022/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo), cụ thể như sau:
– Người phạm tội được xem là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, có hành vi ngoan cố chống đối cơ quan nhà nước có thẩm quyền, có tính chất côn đồ, sử dụng thủ đoạn xảo quyệt, có tính chất chuyên nghiệp trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội, lợi dụng chức vụ quyền hạn để trục lợi cá nhân trái quy định của pháp luật, cố tình gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng trong quá trình phạm tội;
– Người phạm tội sau khi thực hiện hành vi đã bỏ trốn, bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành tố tụng ra đề nghị truy nã;
– Người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách, người đang được hưởng án treo bị xét xử về một tội phạm khác đã được thực hiện trước khi được hưởng án treo trên thực tế;
– Người phạm tội từ 02 lần trở lên, ngoại trừ thuộc một trong những trường hợp sau đây:
+ Người phạm tội được xác định là người dưới 18 tuổi;
+ Các lần phạm tội đều được xác định là loại tội phạm ít nghiêm trọng theo Điều 9 của Bộ luật hình sự năm 2015;
+ Trong các lần phạm tội, người phạm tội được xác định là người giúp sức trong vụ án đồng phạm, với vai trò không đáng kể trong vụ án đó;
+ Các lần phạm tội đều do người phạm tội tự thú tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
– Người phạm tội nhiều lần theo quy định của pháp luật, trừ những trường hợp người phạm tội được xác định là người dưới 18 tuổi;
– Người phạm tội được xác định là trường hợp tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm theo quy định của pháp luật hình sự.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
– Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo;
– Nghị quyết 01/2022/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo.