Nhân quyền là thuật ngữ được cả thế giới nhắc đến như một cách để bảo vệ chính bản thân trong sự xâm phạm của chủ thể khác. Khi xã hội càng phát triển, sự tiến bộ trong chế độ xã hội, khiến “nhân quyền” ngày càng được bảo vệ một cách triệt để. Cùng bài viết tìm hiểu về nhân quyền.
Mục lục bài viết
1. Nhân quyền là gì?
Nhân quyền được hiểu là quyền con người, là những quyền tự nhiên của con người có từ lúc sinh ra tới lúc đã chết đi và không bị tước bỏ bởi bất cứ ai hay bất cứ chủ thể nào. (quyền sống, tự do, an toàn thân thể; quyền có quốc tịch; quyền sở hữu hoặc riêng tư hoặc hùn hiệp với người khác,..)
Theo định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên Hiệp Quốc, nhân quyền là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những tự do cơ bản của con người.
Vấn đề nhân quyền đã được đề cấp đến trong các văn bản như Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền của cách mạng tư sản Pháp năm 1789, Tuyên ngôn Nhân quyền năm 1948, Hiến pháp của các quốc gia,…
Nhân quyền trong Tiếng Anh là “Human Rights”.
2. Những hiểu biết về Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc:
Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc (United Nations Human Rights Council)- trụ sở đặt tại Geveva.
* Lịch sử hình thành Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc.
– Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc là một cơ quan trực thuộc Liên hợp quốc ra đời ngày 13/5/2006, sau khi Đại hội đồng Liên hợp quốc đã bỏ phiếu thông qua Nghị quyết (GA 60/251) chính thức thành lập Hội đồng nhân quyền, với 170 nước bỏ
– Tiền thân của Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc là Ủy ban Nhân quyền (UBNQ) của Liên hợp quốc (United Nations Commission on Human Rights) – một cơ quan được thành lập dựa trên Hiến chương của Liên hợp quốc (còn gọi là cơ quan theo Hiến chương) từ năm 1947, Ủy ban này trực thuộc Hội đồng Kinh tế – Xã hội (UN Economic and Social Commission – ECOSOC). Theo Nghị quyết số 60/251 của Đại hội đồng Liên hợp quốc, các chức năng, nhiệm vụ, bộ máy của Ủy ban nhân quyền sẽ được chuyển sang Hội đồng nhân quyền mới và Hội đồng nhân quyền được yêu cầu họp để xem xét lại, tăng cường và điều chỉnh nhiệm vụ, cơ chế bộ máy của Ủy ban nhân quyền, trong đó tiếp tục duy trì hệ thống các thủ tục đặc biệt, chuyên gia tư vấn và thủ tục khiếu nại. Nghị quyết quyết định việc điều chỉnh này sẽ kết thúc một năm sau khóa họp đầu tiên của Hội đồng nhân quyền.
– Khóa họp đầu tiên của Hội đồng nhân quyền, bắt đầu từ ngày 19/6/2007 đã triển khai công việc này trên cơ sở thành lập sáu nhóm làm việc để thảo luận về các vấn đề liên quan đến xây dựng thể chế của Hội đồng nhân quyền, bao gồm các vấn đề: cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR); thủ tục đặc biệt; chuyên gia tư vấn; thủ tục khiếu nại; chương trình nghị sự và chương trình làm việc; phương pháp làm việc và các quy định thủ tục.
* Quy chế hoạt động:
– Hội đồng nhân quyền có quy chế là cơ quan liên chính phủ trực thuộc Đại hội đồng Liên hợp quốc (còn gọi là cơ quan thành lập theo Hiến chương của Liên hợp quốc (UN Charter-based organ), quy chế có thể được xem xét lại sau 5 năm. Hội đồng Nhân quyền có ba kỳ họp thường xuyên vào tháng 3 (kéo dài bốn tuần), tháng 6 (ba tuần) và tháng 9 (ba tuần) hàng năm. Ngoài ra, Hội đồng có thể họp bất thường, gọi là kỳ họp đặc biệt, để giải quyết các vấn đề khẩn cấp và vi phạm nhân quyền, khi có một phần ba thành viên yêu cầu. Tính đến tháng 5/2020, đã có 28 kỳ họp đặc biệt được tổ chức.
* Cơ cấu của Hội đồng nhân quyền:
Hội đồng Nhân quyền có 47 thành viên là các quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc, được bầu tại Đại hội đồng Liên Hợp Quốc. Các thành viên được bầu sẽ giữ nhiệm kỳ 03 năm, và các nhiệm kỳ này gối nhau. Vì vậy việc bầu thành viên Hội đồng Nhân quyền tại Đại hội đồng Liên Hợp Quốc diễn ra hàng năm với khoảng một phần ba số ghế của Hội đồng được bầu (lần lượt 14, 15 hoặc 18 ghế được bầu cử hàng năm). Một thành viên Hội đồng được phép giữ hai nhiệm kỳ liên tiếp.
Thành viên của Hội đồng Nhân quyền được cơ cấu theo nhóm vùng quốc gia như sau: 13 ghế dành cho các nước châu Phi (4-6 vị trí được bầu hàng năm); 13 ghế dành cho nhóm các nước châu Á – Thái Bình Dương (4-6 vị trí được bầu hàng năm); 6 ghế dành cho các nước Đông Âu (1-2 vị trí được bầu hàng năm); 8 ghế dành cho các nước Mỹ Latinh và vùng Carribea (2-3 vị trí được bầu hàng năm); 7 ghế dành các các nước Tây Âu và các nước khác (2-3 vị trí được bầu hàng năm).
* Chức năng của Hội đồng nhân quyền:
Theo Nghị quyết số 60/251 của Đại hội đồng Liên hợp quốc thì Hội đồng nhân quyền có các chức năng, nhiệm vụ: Thúc đẩy các hoạt động giáo dục, nghiên cứu, dịch vụ tư vấn, trợ giúp kỹ thuật và xây dựng năng lực về quyền con người ở các quốc gia; thúc đẩy việc thực thi đầy đủ các nghĩa vụ về quyền con người ở các quốc gia; đóng vai trò là một diễn đàn để đối thoại về những chủ đề cụ thể về quyền con người; đưa ra những khuyến nghị với Đại hội đồng về sự phát triển của luật quốc tế về quyền con người; thực hiện việc đánh giá định kỳ toàn thể việc tuân thủ các nghĩa vụ và cam kết về quyền con người của các quốc gia; thông qua đối thoại và hợp tác để góp phần phòng ngừa những vi phạm quyền con người và phản ứng kịp thời với những tình huống khẩn cấp về quyền con người; hợp tác chặt chẽ với các chính phủ, các tổ chức khu vực, các cơ quan quyền con người quốc gia, các tổ chức xã hội dân sự trong các hoạt động về quyền con người.
* Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát:
– Tháng 6/2007, Hội đồng nhân quyền đã thông qua “Văn kiện về Xây dựng thiết chế” (còn gọi là Nghị quyết 5.1 của Hội đồng nhân quyền), theo đó thành lập cơ chế “rà soát định kỳ phổ quát” (Universal Periodic Review) nhằm đánh giá việc thực hiện nhân quyền của 192 quốc gia. Đây là cơ chế bắt buộc đòi hỏi không chỉ những quốc gia là thành viên của các công ước quốc tế về quyền con người, mà là tất cả các quốc gia thành viên của Liên hợp quốc, phải có nghĩa vụ đệ trình báo cáo kiểm điểm định kỳ về việc thực thi các cam kết quốc tế về quyền con người.
– Ý nghĩa: Cơ chế này nhằm tăng cường giám sát việc thúc đẩy và bảo đảm quyền con người ở từng quốc gia thành viên Liên hợp quốc. Đồng thời qua đó giúp tham vấn cho Đại hội đồng Liên hợp quốc nói chung, cũng như các cơ quan chuyên trách và chức năng của Liên hợp quốc nói riêng, trong việc đưa ra những chính sách và chương trình phù hợp liên quan đến viện trợ, hợp tác phát triển dưới lăng kính quyền con người đối với các quốc gia thành viên Liên hợp quốc
– Cơ chế vận hành:
Bản thân cuộc kiểm điểm diễn ra tại Geneva trong một phiên họp của Nhóm Làm việc về UPR, bao gồm 47 quốc gia thành viên của Hội đồng Nhân quyền. Kiểm điểm có hình thức một cuộc đối thoại tương tác kéo dài ba tiếng rưỡi giữa Nhà nước được kiểm điểm và các nước thành viên, quan sát viên của Hội đồng. Một vài ngày sau buổi đối thoại tương tác, Nhóm Làm việc thông qua bản báo cáo của cơ chế này.
Một hồ sơ đầu ra cuối cùng, chứa báo cáo của nhóm làm việc và quan điểm của quốc gia bị kiểm điểm về các khuyến nghị được đưa ra, sẽ được thông qua vào phiên họp toàn thể tiếp sau đó của Hội đồng Nhân quyền, vài tháng sau kỳ kiểm điểm. Sẽ có một giờ đồng hồ dành riêng cho việc thông qua mỗi hồ sơ đầu ra. Một giờ đồng hồ này được chia đều cho nhà nước bị kiểm điểm, các nước khác, các định chế nhân quyền quốc gia, và các NGO quan sát viên, để họ ra các tuyên bố miệng, bình luận về phiên kiểm điểm UPR.
Tại phiên họp định kỳ, tiếp sau việc Hội đồng Nhân quyền thông qua hồ sơ đầu ra UPR là đến phiên thảo luận chung theo khoản mục 6 trong chương trình nghị sự, về kỳ Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát. Đôi khi, các nhà nước được kiểm điểm theo cơ chế UPR sẽ cung cấp thông tin cập nhật về tiến bộ họ đạt được trong việc thực hiện các cam kết mà họ từng đưa ra và những khuyến nghị mà họ từng chấp thuận trong quá trình bị kiểm điểm theo cơ chế UPR.
3. Việt Nam với Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc:
Trước đây, Việt nam lần đầu tiên trở thành thành viên Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2014-2016.Sự kiện này có ý nghĩa vô cùng quan trọng, đánh dấu bước tiến mới trong nỗ lực triển khai chính sách đối ngoại độc lập, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế theo tinh Nghị quyết đại hội Đảng.
Trong quá trình là thành viên của Hội đồng nhân quyền, Việt Nam luôn chứng minh là một thành viên nghiêm túc, có trách nhiêm, chủ động, tích cực xây dựng: Sự nghiêm túc và có trách nhiệm của Việt Nam được thể hiện trong việc tham gia phát biểu, thảo luận tại hàng trăm cuộc họp, xây dựng và thương lượng các nghị quyết, quyết định của Hội đồng nhân quyền, đóng góp vào việc bảo đảm các giá trị chung về quyền con người.
Nghiêm túc trong thực hiện cơ chế UPR (rà soát phổ quát định kỳ): rà soát chuẩn bị báo cáo quốc gia chu kỳ I và chu kỳ II; đối thoại thẳng thắn với các nước tại phiên bảo vệ UPR; thực hiện nghiêm túc các khuyến nghị mà Việt Nam chấp thuận. Trong chu kỳ II, Việt Nam chấp nhận 182/227 khuyến nghị. Thủ tướng Chính phủ ban hành kế hoạch tổng thể để thực hiện các khuyến nghị. Nhiều bộ, ngành cũng đề ra các kế hoạch riêng về thực hiện khuyến nghị.
Sau một thời gian hết nhiệm kỳ, ngày 22-2-2021, tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở Geneva, Thụy Sĩ, khóa họp thường kỳ lần thứ 46 của Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc đã khai mạc, tại phiên thảo luận cấp cao, Phó thủ tướng cũng đã