Bộ luật tố tụng hình sự quy định những biện pháp điều tra nhằm thu thập chứng cứ để chứng minh tội phạm và người phạm tội. Nhận dạng là một trong các biện pháp điều tra đó. Trong quá trình giải quyết vụ án, nhận dạng để làm rõ sự đồng nhất hay sự khác biệt giữa đối tượng nhận dạng
Mục lục bài viết
1. Nhận dạng là gì?
Người nhận dạng có thể là người làm chứng, bị hại hoặc bị can. Đối tượng nhận dạng có thể là người, ảnh hoặc vật. Mục đích của việc tiến hành nhận dạng là nhằm xác nhận sự giống hay khác nhau giữa đối tượng nhận dạng với hình ảnh của đối tượng mà người nhận dạng đã tri giác trước đây. Qua việc nhận dạng có thể xác định được người phạm tội, vật chứng của vụ án, tung tích của tử thi…
Theo quy định tại Điều 190
“- Khi cần thiết, Điều tra viên có thể đưa người, ảnh hoặc vật cho người làm chứng, bị hại hoặc bị can nhận dạng.
Số người, ảnh hoặc vật đưa ra để nhận dạng ít nhất phải là ba và bề ngoài phải tương tự nhau, trừ trường hợp nhận dạng tử thi.
Trước khi tiến hành nhận dạng, Điều tra viên phải
– Những người sau đây phải tham gia việc nhận dạng:
a) Người làm chứng, bị hại hoặc bị can;
b) Người chứng kiến.
– Nếu người làm chứng hoặc bị hại là người nhận dạng thì trước khi tiến hành, Điều tra viên phải giải thích cho họ biết trách nhiệm về việc từ chối, trốn tránh khai báo hoặc cố ý khai báo gian dối. Việc này phải ghi vào biên bản.
– Điều tra viên phải hỏi trước người nhận dạng về những tình tiết, vết tích và đặc điểm mà nhờ đó họ có thể nhận dạng được.
Trong quá trình tiến hành nhận dạng, Điều tra viên không được đặt câu hỏi gợi ý. Sau khi người nhận dạng đã xác nhận một người, một vật hay một ảnh trong số được đưa ra để nhận dạng thì Điều tra viên yêu cầu họ giải thích là họ đã căn cứ vào các vết tích hoặc đặc điểm gì mà xác nhận được người, vật hay ảnh đó.
– Biên bản nhận dạng được lập theo quy định tại của Bộ luật tố tụng hình sự. Biên bản ghi rõ nhân thân, tình trạng sức khỏe của người nhận dạng và của những người được đưa ra để nhận dạng; đặc điểm của vật, ảnh được đưa ra để nhận dạng; các lời khai báo, trình bày của người nhận dạng; điều kiện ánh sáng khi thực hiện nhận dạng”.
Nhận dạng là biện pháp điều tra được tiến hành bằng cách tổ chức cho một người quan sát, so sánh, nhận lại đối tượng hiện tại với một đối tượng mà họ đã tri giác trước đây. Nhằm làm rõ sự đồng nhất, sự tương đồng hay sự khác biệt giữa đối tượng nhận dạng với đối tượng có liên quan đến vụ án .
Nhận dạng trong tiếng Anh được hiểu là Identification.
Nhận dạng là biện pháp điều tra do Điều tra viên thực hiện theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định. Nhận dạng là quá trình nhớ lại, nhận lại đối tượng mà trước đây người nhận dạng đã tri giác và ghi nhớ trong trí nhớ khi đối tượng đó xuất hiện trở lại. Mục đích của nhận dạng là xác định sự đồng nhất, sự tương đồng hay sự khác nhau giữa đối tượng nhận dạng thực tại với đối tượng mà người nhận dạng đã tri giác trước đây. Nhờ tiến hành nhận dạng Điều tra viên có thể thu thập, kiểm tra, củng cố nhiều tài liệu chứng cứ khác nhau để chứng minh các tình tiết của vụ án và làm cơ sở để xây dựng giả thuyết điều tra.
Người nhận dạng và đối tượng nhận dạng được quy định tại Điều 190 BLTTHS.
Người nhận dạng là người được Điều tra viên đưa ra để quan sát, so sánh đối tượng nhận dạng với hình ảnh của đối tượng mà người nhận dạng tri giác trước đây trong mối liên hệ với vụ án còn lưu giữ trong trí nhớ của người nhận dạng để nhận lại đối tượng cần nhận dạng. Theo quy định người nhận dạng gồm: người làm chứng, bị hại hoặc bị can.
Đối tượng nhận dạng là đối tượng được Điều tra viên đưa ra để nhận dạng bao gồm: người (bị can, đối tượng bị tình nghi, người bị hại, người làm chứng); tử thi; đồ vật, súc vật; địa điểm, tài liệu…
Sự cần thiết để tiến hành nhận dạng được xác định căn cứ vào nhiệm vụ của hoạt động điều tra và những vấn đề cần chứng minh trong vụ án.
2. Nhận dạng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự:
Theo quy định tại Điều 190 BLTTHS năm 2015 thì chủ thể có thẩm quyền tiến hành việc nhận dạng là Điều tra viên thuộc Cơ quan điều tra. Viện kiểm sát,
Những người phải tham gia việc nhận dạng được quy định tại khoản 2 Điều 190 BLTTHS năm 2015, gồm:
– Người nhận dạng: Có thể là người làm chứng, bị hại hoặc bị can. Nếu lựa chọn những người tham gia tố tụng khác như người bị bắt, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự… làm người nhận dạng thì kết quả nhận dạng sẽ không có giá trị pháp lý và không được dùng làm chứng cứ giải quyết vụ án. Tuy Điều 190 BLTTHS năm 2015 không quy định rõ nhưng theo tác giả, người nhận dạng phải đáp ứng các điều kiện, đó là: Họ phải là người đã tri giác và còn lưu giữ được những tình tiết, vết tích, đặc điểm của đối tượng cần nhận dạng; họ phải là người có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình; là người có khả năng tri giác; là người được Điều tra viên chọn làm người nhận dạng.
– Người chứng kiến: Người chứng kiến có trách nhiệm xác nhận nội dung, kết quả nhận dạng và có thể nêu ý kiến cá nhân. Ý kiến này được ghi vào biên bản. Những người sau đây không được làm người chứng kiến việc nhận dạng: Người do nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà không có khả năng nhận thức đúng sự việc; người dưới 18 tuổi…
Về đối tượng nhận dạng:
Đối tượng nhận dạng là người, ảnh hoặc vật được đưa ra để nhận dạng. Số người, ảnh hoặc vật đưa ra để nhận dạng ít nhất phải là ba và bề ngoài phải tương tự nhau, trừ trường hợp nhận dạng tử thi. Đối tượng nhận dạng gồm:
– Đối tượng nhận dạng chính: Là đối tượng cần xác định có liên quan đến vụ án hình sự.
– Đối tượng nhận dạng tương tự: là đối tượng không liên quan đến vụ án, tự nguyện tham gia việc nhận dạng, có bề ngoài tương tự đối tượng nhận dạng chính, được đưa ra nhận dạng cùng đối tượng nhận dạng chính để bảo đảm sự khách quan của việc nhận dạng. Đối tượng tương tự là người thì phải cùng giới, gần giống đối tượng nhận dạng chính về chiều cao, màu da, độ tuổi. Đối tượng tương tự là vật thì vật đó phải cùng loại, gần giống đối tượng nhận dạng chính về kích thước, màu sắc…
Nguyên tắc về nhận dạng
Người nhận dạng có thể là người làm chứng, bị hại hoặc bị can. Đối tượng nhận dạng có thể là người, ảnh hoặc vật.
Số người, ảnh hoặc vật đưa ra để nhận dạng ít nhất phải là 03 và bề ngoài phải tương tự nhau, trừ trường hợp nhận dạng tử thi.
Trước khi tiến hành nhận dạng, Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp để cử kiểm sát viên kiểm sát việc nhận dạng. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc nhận dạng. Nếu kiểm sát viên vắng mặt thì ghi rõ vào biên bàn nhận dạng..
Tính khách quan của hoạt động nhận dạng
Hoạt động nhận dạng phải được tiến hành khách quan và theo trình tự nhất định nhằm đảm bảo tính hiệu quả và kết quả của nhận dạng. Điều luật quy định Điều tra viên phải hỏi trước người nhận dạng về những tình tiết, vết tích và đặc điểm mà nhờ đó họ có thể nhận dạng được.
Trách nhiệm của điều tra viên trong quá trình tiến hành nhận dạng
Trong quá trình tiến hành nhận dạng, Điều tra viên không được đặt câu hỏi gợi ý. Sau khi người nhận dạng đã xác nhận một người, một vật hay một ảnh trong số được đưa ra để nhận dạng thì Điều tra viên yêu cầu họ giải thích là họ đã căn cứ vào các vết tích hoặc đặc điểm gì mà xác nhận được người, vật hay ảnh đó.
Biên bản nhận dạng
Tương tự như các hoạt động điều tra khác, biên bản nhận dạng được lập theo quy định tại Điều 178 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Biên bản ghi rõ nhân thân, tình trạng sức khỏe của người nhận dạng và của những người được đưa ra để nhận dạng; đặc điểm của vật, ảnh được đưa ra để nhận dạng, các lời khai báo, trình bày của người nhận dạng, điều kiện ánh sáng khi thực hiện nhận dạng.
3. Về trình tự, thủ tục tiến hành nhận dạng:
– Điều tra viên phải hỏi trước người nhận dạng về những tình tiết, vết tích và đặc điểm mà nhờ đó họ có thể nhận dạng được (khoản 4 Điều 190).
Việc hỏi trước giúp cho người nhận dạng có thời gian, điều kiện để nhớ lại các tình tiết, vết tích và đặc điểm của đối tượng mà họ đã tri giác trước đây; là cơ sở để kiểm tra, đánh giá lời khai của họ sau khi việc nhận dạng kết thúc và cũng để xác định lại việc có cần thiết tiến hành nhận dạng hay không. Tuy vậy, quy định trên dẫn đến hai cách hiểu khác nhau khi áp dụng. Cách hiểu thứ nhất: Trong buổi nhận dạng, Điều tra viên phải hỏi người nhận dạng, rồi sau đó mới cho họ bắt đầu nhận dạng. Cách hiểu thứ hai: Điều tra viên phải hỏi người nhận dạng trước khi tiến hành nhận dạng (chẳng hạn như Điều tra viên hỏi người nhận dạng trước khi tiến hành nhận dạng 10 ngày). Theo tác giả, Điều tra viên nên hỏi người nhận dạng trước khi tiến hành nhận dạng một thời gian hợp lý. Nếu thời gian từ khi hỏi đến khi tiến hành nhận dạng quá lâu thì họ có thể quên đi các tình tiết, vết tích, đặc điểm của đối tượng nhận dạng.
Khi hỏi người nhận dạng, Điều tra viên cần hỏi thật kỹ họ về các tình tiết, vết tích, đặc điểm của đối tượng nhận dạng; các yếu tố khách quan trong khi họ tri giác đối tượng như ánh sáng, khoảng cách; các yếu tố chủ quan trong khi họ tri giác đối tượng…
– Trước khi tiến hành nhận dạng, Điều tra viên phải thông báo việc tiến hành nhận dạng cho Viện kiểm sát cùng cấp để cử Kiểm sát viên tham gia kiểm sát việc nhận dạng (khoản 1 Điều 190).
So với BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung quy định Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát để cử Kiểm sát viên tham gia kiểm sát việc nhận dạng. Việc bổ sung quy định này nhằm nâng cao trách nhiệm của Kiểm sát viên, đồng thời bảo đảm hoạt động này thực hiện đúng quy định của pháp luật.
– Nếu người nhận dạng là người dưới 18 tuổi thì trước khi tiến hành nhận dạng, Điều tra viên còn phải thông báo cho người bào chữa, người đại diện hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ tham dự (Điều 420, 421).
– Nếu có người làm chứng hoặc bị hại là người nhận dạng thì trước khi tiến hành nhận dạng, Điều tra viên phải giải thích cho họ biết trách nhiệm về việc từ chối, trốn tránh khai báo hoặc cố tình khai báo gian dối. Việc này phải ghi vào biên bản nhận dạng (khoản 3 Điều 190). Có nhiều nguyên nhân làm cho người làm chứng hoặc bị hại từ chối, trốn tránh khai báo hoặc cố tình khai báo gian dối: sợ bị trả thù, có mối quan hệ gia đình, bạn bè…, làm ảnh hưởng đến kết quả nhận dạng. Vậy nên, việc quy định như trên là cần thiết, bảo đảm sự đúng đắn trong lời khai của người làm chứng, bị hại.
– Số người, ảnh hoặc vật đưa ra để nhận dạng ít nhất phải là ba, trừ trường hợp nhận dạng tử thi (khoản 1 Điều 190). Số người, ảnh hoặc vật đưa ra quá nhiều sẽ làm cho người được nhận dạng mất tập trung, khó khăn trong việc nhận dạng. Ngược lại, nếu đưa người, ảnh hoặc vật ra quá ít thì việc nhận dạng sẽ không được khách quan.
– Trong quá trình tiến hành nhận dạng, Điều tra viên không được đặt câu hỏi gợi ý. Điều tra viên đặt câu hỏi gợi ý rất dễ làm cho người nhận dạng khai báo theo ý của Điều tra viên, làm ảnh hướng đến tính khách quan của kết quả nhận dạng. Sau khi người nhận dạng đã xác nhận một người, một vật hay một ảnh trong số được đưa ra để nhận dạng thì Điều tra viên yêu cầu họ giải thích là họ đã căn cứ vào các vết tích hoặc đặc điểm gì mà xác nhận được người, vật hay ảnh đó.
– Sau khi người nhận dạng đã xác nhận một người, một vật hay một ảnh trong số được đưa ra để nhận dạng thì Điều tra viên yêu cầu họ giải thích là họ đã căn cứ vào các vết tích hoặc đặc điểm gì mà xác nhận được người, vật hay ảnh đó.
– Kết thúc việc nhận dạng, Điều tra viên phải lập biên bản. Biên bản nhận dạng được lập theo quy định tại Điều 178 của Bộ luật này. Biên bản ghi rõ nhân thân, tình trạng sức khỏe của người nhận dạng và của những người được đưa ra để nhận dạng; đặc điểm của vật, ảnh được đưa ra để nhận dạng; các lời khai báo, trình bày của người nhận dạng; điều kiện ánh sáng khi thực hiện nhận dạng (khoản 5 Điều 190).
Nhận dạng là biện pháp điều tra quan trọng được áp dụng rộng rãi trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự nhằm thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh sự thật của vụ án. Kết quả nhận dạng là nguồn chứng cứ pháp lý. Quá trình kiểm sát việc thực hiện nhận dạng cần thực hiện đúng quy định của BLTTHS và quan tâm một số vấn đề nêu trên để việc nhận dạng đạt kết quả cao, làm căn cứ giải quyết các vụ án hình sự.