Tết Nguyên đán là một trong những dịp lễ lớn nhất của Việt Nam. Chúng ta có tò mò nguồn gốc của ngày Tết nguyên đán đến từ đâu không? Hãy cùng tìm hiểu qua bài viết dưới đây nhé.
Mục lục bài viết
1. Tết Nguyên Đán là gì?
Tết Nguyên Đán là lễ hội truyền thống lớn nhất trong năm của người Việt Nam. Đó là thời điểm giao thoa giữa năm cũ và năm mới, nó thể hiện sự gắn kết trong cộng đồng, dòng tộc và gia đình. Đó chính là giá trị tinh thần, cũng là giá trị tình cảm sâu sắc của người Việt Nam.
Tết Nguyên Đán là lễ hội truyền thống lớn nhất trong năm của người Việt Nam. Tết đến xuân về không chỉ là niềm mong ước của bao đứa trẻ được mặc quần áo mới, ăn bánh mứt và đặc biệt là được nhận lì xì mà nó còn mang một ý nghĩa vô cùng sâu sắc. Đó là sự giao thoa giữa năm cũ và năm mới, giữa một vòng tuần hoàn của đất trời, vạn vật, cây cỏ; Nó còn thể hiện sự cố kết trong cộng đồng, dòng tộc, gia đình. Tết Nguyên đán cũng là dịp để trở về cội nguồn.
Đó là giá trị tinh thần, cũng như giá trị tình cảm sâu sắc của người Việt Nam đã trở thành truyền thống tốt đẹp.
Vậy Tết Nguyên Đán thực chất bắt nguồn từ đâu và ý nghĩa tên gọi của nó là gì?
Tết Nguyên đán (còn gọi là Tết Cả, Tết Ta, Tết Nguyên đán, Tết Cổ truyền hay đơn giản là Tết Nguyên đán) là lễ mừng Tết Nguyên đán quan trọng và ý nghĩa nhất ở Việt Nam.
“Tết” là âm Hán Việt của từ “tie”, “yuan” trong tiếng Trung Quốc có nghĩa là bắt đầu hoặc bắt đầu và “dan” có nghĩa là sáng sớm, do đó, cách phát âm chính xác phải là “Tết”.
2. Thời gian của Tết Nguyên Đán được tính như thế nào?
Tết Nguyên Đán của Việt Nam được tính theo âm lịch, muộn hơn Tết Tây. Do quy luật 3 năm nhuận và một tháng âm lịch nên ngày mùng 1 Tết không bao giờ trước ngày 21 tháng 1 dương lịch và sau ngày 19 tháng 2 dương lịch mà thường rơi vào khoảng thời gian giữa các ngày này.
Thời gian diễn ra Tết Nguyên đán hàng năm thường kéo dài khoảng 7-8 ngày cuối năm cũ và 7 ngày đầu năm mới (23 tháng Chạp đến hết ngày 7 tháng Giêng).
3. Nguồn gốc của ngày Tết nguyên đán:
Tết Nguyên Đán là ngày lễ cổ truyền lớn nhất và lâu đời nhất ở nước ta, có phạm vi vô cùng phổ biến và rộng khắp từ Mục Nam Quan cho đến mũi Cà Mau của Tổ quốc. Đây được coi là ngày lễ tưng bừng và nhộn nhịp nhất của cả dân tộc. Nhưng ít ai biết rằng, cách đây nhiều thế kỷ, bắt đầu từ các triều đại Lý – Trần – Lê, ông cha ta đã tổ chức Tết Nguyên đán hàng năm rất long trọng và linh thiêng.
Theo truyền thuyết và lịch sử nước ta, từ khi nhà Hồng Bàng lập nước Văn Lang đến khi Kinh Dương Vương sinh ra Lạc Long Quân, vị thần này lấy Âu Cơ sinh ra Hùng Vương đã ăn Tết. Minh chứng rõ nhất cho điều này là sự xuất hiện của bánh chưng, bánh dày – do sáng kiến của Lang Liêu – con trai thứ 18 của Hùng Vương thứ 6.
Từ đó có thể thấy, nước ta đã sớm hình thành một nền văn hóa truyền thống mang bản sắc riêng của dân tộc Việt Nam – đặc biệt là nền nông nghiệp lúa nước và các sản phẩm từ lúa, gạo. Gạo – sản vật chính để nuôi sống con người, trong đó có loại nếp thơm ngon nhất nên được chọn để làm bánh chưng ngày đầu năm.
Trên thực tế, cho đến nay vẫn chưa có thông tin chính xác cũng như thời gian cụ thể để xác định thời điểm nước ta đón Tết. Nhưng sử Trung Quốc ghi lại rằng, từ thế kỷ thứ I, hai vị quan Trung Quốc là Nhâm Diên và Tích Quang khi sang nước ta đã dạy dân ta cách làm ruộng và các sinh hoạt văn hóa khác, trong đó có Tết truyền thống. Điều đó hoàn toàn không đúng bởi thực tế đã chứng minh rằng: trước khi người Trung Quốc sang đô hộ, người Việt Nam chúng ta đã có những sinh hoạt văn hóa rất nề nếp và độc đáo.
4. Nguồn gốc tết bắt nguồn từ Trung Quốc:
Khác với giả thuyết cho rằng nguồn gốc Tết Nguyên đán bắt nguồn từ Việt Nam, có người lại cho rằng Tết cổ truyền của nước ta bắt nguồn từ Trung Quốc, điều đó có đúng không?
Theo lịch sử Trung Quốc, nguồn gốc của Tết Nguyên đán có từ thời Tam Hoàng, Ngũ Hoàng và được thay đổi theo từng thời kỳ. Ví dụ thời Tam Vương, nhà Hạ chuộng màu đen nên lấy tháng Dần làm tháng Giêng ăn Tết, nhà Thương chuộng màu trắng nên lấy tháng Chạp làm tháng Giêng. Nhà Chu thích màu đỏ nên chọn tháng Tý (tháng 11) làm tháng Tết.
Vào thời Đông Chu, Khổng Tử đổi Tết Nguyên Đán thành một tháng nhất định là tháng Dần. Nhưng đến đời Tần (thế kỷ III TCN), Tần Thủy Hoàng đổi tháng Kỷ Hợi (tháng 10) là tháng Tết. Sau đó, đến đời Hán, Vũ Đế (140 TCN) ấn định ngày Tết vào tháng Dần, tức tháng Giêng. Kể từ đó, trải qua bao thế hệ, câu chuyện về Tết vẫn không hề thay đổi.
Vào đời Đông Phương Sóc, tương truyền ngày tạo hóa trời đất có thêm giống gà, ngày thứ hai có chó, ngày thứ ba có lợn, ngày thứ tư có dê, ngày thứ tư có dê, ngày thứ hai có con chó. Ngày thứ năm có một con trâu, ngày thứ năm có một con dê. Thứ sáu, con ngựa, vào ngày thứ bảy của loài người, và vào ngày thứ tám của ngũ cốc. Vì vậy, Tết thường từ mùng 1 đến mùng 7 tháng Giêng (8 ngày).
Ngày nay, cùng với người Hoa, người Việt và các dân tộc chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa như người Triều Tiên, người Mông Cổ, người Tạng cũng đón Tết Nguyên đán và các ngày lễ chính thức.
Do âm lịch của Việt Nam khác với Trung Quốc nên Tết Nguyên đán của Việt Nam không hoàn toàn trùng với Tết Nguyên đán của Trung Quốc. Do âm lịch là loại lịch tuân theo chu kỳ vận hành của Mặt trăng nên Tết Nguyên đán thường đến muộn hơn Tết Dương lịch. Do quy luật 3 năm nhuận 1 tháng âm lịch nên ngày mùng 1 Tết không bao giờ trước ngày 21 tháng 1 dương lịch và sau ngày 19 tháng 2 dương lịch mà thường rơi vào giữa cuối tháng Giêng và giữa tháng hai. Toàn bộ kỳ nghỉ Tết Nguyên đán hàng năm thường kéo dài từ 7 – 8 ngày để kết thúc năm cũ và 7 ngày đầu tiên của năm mới (tức từ ngày 23 tháng Chạp đến hết ngày 7 tháng Giêng).
5. Ý nghĩa của ngày Tết Nguyên Đán:
Đối với người Việt Nam, Tết Nguyên đán không chỉ là thời điểm chuyển giao giữa năm cũ và năm mới mà còn chứa đựng nhiều ý nghĩa văn hóa, tâm linh,… Theo quan niệm của người phương Đông, đây là thời điểm của Trời đất đã được hòa giải và con người trở nên gần gũi với các vị thần.
Tết Nguyên đán xưa là dịp để người nông dân tỏ lòng thành kính với các vị thần như thần Đất, thần Mưa, thần Sấm, thần Nước, thần Mặt trời… và cầu cho một năm mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt.
Bên cạnh đó, đây còn được coi là ngày “làm mới”, là ngày mà mọi người có thể cầu mong một năm mới bình an, thịnh vượng, thuận lợi cho cả năm và rũ bỏ mọi điều xui xẻo trong năm cũ. Vì vậy, ngày Tết, nhà nào cũng tất bật dọn dẹp, mua sắm, trang hoàng nhà cửa thật đẹp.
Đây cũng là dịp để mọi người làm mới tình cảm, tinh thần để mối quan hệ với những người thân yêu được gần gũi hơn, tinh thần thoải mái, vui tươi hơn. Ngày Tết, các gia đình thường quây quần chúc Tết, cùng nhau thắp nén nhang tưởng nhớ ông bà, tổ tiên và tạ ơn những điều phúc lành trong một năm qua.
Tết là dịp để mọi người hân hoan chúc nhau những điều tốt đẹp nhất trong năm mới và trút bỏ mọi xích mích đã làm mất lòng nhau trong năm cũ. Mọi người bắt tay để chào hỏi và dành nhiều thời gian để thăm họ hàng, bạn bè và làng xóm. Tết cũng là khởi đầu của một hy vọng mới, một nỗ lực mới, một cuộc sống mới trong tương lai.
Tết còn là ngày sum họp. Một người dù đi làm ăn xa đến đâu cũng cố gắng trở về quê hương, tức là nơi sinh ra mình, quê cha mẹ để ăn Tết, cúng bái tổ tiên, mừng tuổi ông bà, cha mẹ, họ hàng, lối xóm. Mọi người nghỉ ngơi, ăn uống sau những ngày lao động vất vả.
Người Việt có thói quen làm lụng vất vả quanh năm. Trong năm ở thành phố, hầu hết các thương nhân và công nhân nhà máy không có thời gian nghỉ ngơi. Ở quê, làm ruộng, quanh năm không có ngày chủ nhật nên ai cũng mệt mỏi, không có thời gian đi thăm người thân, bạn bè ở xa. Vì vậy, người Việt Nam đã coi những ngày Tết là dịp để nghỉ ngơi, thăm hỏi lẫn nhau nhằm thắt chặt tình cảm gia đình, bạn bè, làng xóm. Với những ý nghĩa to lớn như thế, ngày nay Tết Nguyên Đán đã là ngày lễ không thể thiếu trong cuộc sống tinh thần của người Việt Nam.