Quan hệ pháp luật hành chính là quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lý hành chính nhà nước, được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật hành chính giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân mang quyền và nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật hành chính. Vậy năng lực chủ thể hành chính là gì? và phát sinh từ khi nào?
Mục lục bài viết
1. Chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính:
Chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính đó là những người tham gia vào quan hệ pháp luật hành chính mang quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Khách thể của quan hệ pháp luật hành chính là lợi ích mà các bên chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật hướng tới. Trong quan hệ pháp luật hành chính khách thể mà các bên hướng tới đó chính là trật tự quản lý hành chính- chính là bộ phận quy định trong quy phạm pháp luật Bộ phận thứ ba không thể thiếu trong quan hệ pháp luật là nội dung của quan hệ pháp luật đó.
Nội dung của quan hệ pháp luật hành chính là quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật hành chính. Quan hệ pháp luật hành chính là quan hệ “quyền lực – phục tùng” quan hệ bất bình đẳng về ý chí giữa các bên tham gia. Chủ thể đặc biệt (cơ quan Nhà nước, cá nhân có thẩm quyền …) tham gia quan hệ trên cơ sở quyền lực nhà nước, phải sử dụng quyền lực nhà nước và chủ thể thường có nghĩa vụ chấp hành việc sử dụng quyền lực nhà nước của chủ thể đặc biệt. Nhưng không vì thế mà trong quan hệ pháp luật hành chính chỉ một bên mang quyền một bên mang nghĩa vụ mà trong một quan hệ thì quyền của bên này tương ứng với nghĩa vụ của bên kia và ngược lại.
2. Năng lực chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính:
Năng lực chủ thể là khả năng pháp lí của các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật với tư cách là chủ thể của quan hệ đó. Hay nói cách khác năng lực chủ thể là khả năng thực hiện quyền và nghĩa vụ của các chủ thể quan hệ pháp luật mà họ tham gia. Năng lực chủ thể gồm năng lực pháp luật và năng lực hành vi.
Năng lực pháp luật là khả năng hưởng các quyền và nghĩa vụ pháp lí mà nhà nước quy định cho cá nhân hoặc tổ chức. Thông thường, năng lực pháp luật có khi người đó sinh ra và mất đi khi người đó chết. Đó là thuộc tính không tách rời của mỗi công dân và nó xuất hiện trên cơ sở pháp luật của mỗi nước. Yếu tố thứ hai cấu thành nên năng lực chủ thể là năng lực hành vi. Đây là yếu tố biến động nhất trong cấu thành của năng lực chủ thể.
Năng lực hành vi là khả năng của cá nhân được Nhà nước thừa nhận mà bởi khả năng này họ có thể tự mình tạo ra và thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lí đồng thời cũng tự mình gánh chịu những hậu quả pháp lí nhất định. Năng lực pháp luật và năng lực hành vi tạo thành năng lực chủ thể pháp luật nên vì thế chúng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Một chủ thể pháp luật đơn thuần chỉ có năng lực pháp luật thì không thể tham gia tích cực vào các quan hệ pháp luật, tức không thể tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ chủ thể.
Ngược lại năng lực pháp luật là tiền đề của năng lực hành vi. Không thể có chủ thể nào của pháp luật không có năng lực pháp luật mà lại có năng lực hành vi. Giữa năng lực pháp luật và năng lực hành vi có giới hạn rõ nét khi chủ thể quan hệ pháp luật là các cá nhân vì trong trường hợp này sự xuất hiện năng lực hành vi của chủ thể xảy ra muộn hơn so với năng lực pháp luật. Còn đối với chủ thể pháp luật là các pháp nhân, tổ chức thì ranh giới này khó nhận thấy vì nó xuất hiện đồng thời khi pháp nhân đó được thành lập.
Năng lực chủ thể trong quan hệ pháp luật hành chính cũng là khả năng của các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật hành chính với tư cách là chủ thế của quan hệ đó. Hay nói cách khác năng lực chủ thể trong quan hệ pháp luật hành chính là khả năng hưởng và thực hiện quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật hành chính. Năng lực chủ thể trong quan hệ pháp luật hành chính cũng bao gồm năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Nhưng ranh giới giữa chúng rõ ràng trong trường hợp chủ thể là cá nhân. Còn trong trường hợp chủ thể là cơ quan nhà nước, cán bộ công chức, tổ chức thì năng lực pháp luậtt và năng lực hành vi khó phân biệt được. Thường thì năng lực pháp luật và năng lực hành vi của các chủ thể này xuất hiện và chấm dứt đồng thời.
2.1. Năng lực chủ thể của cơ quan nhà nước:
Cơ quan nhà nước là bộ phận hợp thành bộ máy nhà nước, được thành lập để thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo luật định. Năng lực chủ thể của cơ quan nhà nước phát sinh khi cơ quan đó được thành lập và chấm dứt khi cơ quan đó bị giải thể. Đã là cơ quan nhà nước khi nó ra đời tất yếu là đã có năng lực pháp luật bằng chứng là ở việc nhà nước cho phép thành lập và đặc biệt hơn nữa đó là cơ quan đó được nhân danh Nhà nước được sử dụng quyền lực Nhà nước để hoạt động trong phạm vi thẩm quyền của mình.
Mỗi cơ quan nhà nước ra đời nó thực hiện một chức năng nhiệm vụ cụ thể do pháp luật quy định. Điều đó cũng có nghĩa là nó phải có những điều kiện khả năng để thực hiện chức năng của mình tức là phải đủ năng lực hành vì và năng lực hành vi trong trường hợp này xuất hiện cùng lúc với năng lực pháp luật được thể hiện trong quyết định thành lập cơ quan nhà nước đó. Mặc dù các cơ quan Nhà nước có thể được thành lập không có chức năng quản lý hành chính Nhà nước nhưng khi nó có quyết định được thành lập thì năng lực chủ thể trong quan hệ pháp luật hành chính của nó mặc nhiên phát sinh.
Bởi lẽ tuy hoạt động quản lý hành chính không phải là chức năng của nó nhưng hoạt động quản lý hành chính không thể thiếu trong quá trình hoạt động của cơ quan nhà nước. Đặc biệt là hoạt động quản lý hành chính Nhà nước trong quá trình củng cố, xây dựng chế độ công tác nội bộ của cơ quan (nhóm đối tượng điều chỉnh thứ hai của luật hành chính). Do vậy, pháp luật không cần quy định hoạt động quản lý của cơ quan này nhưng cơ quan đó sẽ tự thỏa mãn yêu cầu về năng lực chủ thể trong quan hệ pháp luật hành chính ngay khi thành lập
2.2. Năng lực chủ thể của cán bộ, công chức:
Để trở thành cán bộ, công chức thì cá nhân phải trải qua những vòng sơ khảo kĩ lưỡng. Ví dụ: để trở thành cán bộ thì “Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Điều đó chứng tỏ họ cũng phải có năng lực pháp luật, đặc biệt là năng lực hành vi đầy đủ. Khi trở thành cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan nhà nước, họ sử dụng quyền lực của nhà nước trong phạm vi thẩm quyền của mình tác động tới đối tượng quản lý để thực hiện những chức năng, nhiệm vụ được giao. Năng lực chủ thể của cán bộ, công chức được pháp luật quy định phù hợp với năng lực chủ thể của cơ quan và vị trí công tác của cán bộ công chức đó. Họ là cán bộ, công chức khi họ thực hiện công việc của mình.
Còn ngoài chức vụ quyền hạn của mình thì cán bộ công chức không còn là cán bộ công chức nhà nước sử dụng quyền lực nữa mà trở thành cá nhân bình thường. Ví dụ: cảnh sát giao thông khi thực hiện nhiệm vụ trong phạm vi thẩm quyền của mình, họ có quyền xử phạt hành chính cá nhân vi phạm trật tự an toàn giao thông. Nhưng trong cuộc sống đời thường, họ có thể bị chủ thể khác xử phạt nếu như họ vi phạm.
2.3. Năng lực chủ thể của tổ chức:
Năng lực của chủ thể tổ chức trong quan hệ pháp luật hành chính Tổ chức có thể hiểu đơn giản là tập hợp một nhóm đông người liên kết lại với nhau vì một mục đích nào đó. Ở nước ta có nhiều tổ chức, có thể là tổ chức xã hội có thể là đơn vị kinh tế, đơn vị vũ trang, cũng có thể là đơn vị hành chính sự nghiệp…
Năng lực pháp luật và năng lực hành vi của tổ chức cũng xuất hiện đồng thời nhưng nó không mặc nhiên phát sinh khi tổ chức đó được thành lập. Năng lực chủ thể của tổ chức chỉ phát sinh khi Nhà nước quy định quyền và nghĩa vụ của tổ chức đó trong quản lý hành chính Nhà nước và chấm dứt khi không còn những quy định đó hoặc khi tổ chức đó bị giải thể. Bởi lẽ các tổ chức thường thành lập với mục đích đa dạng không phải lúc nào các tổ chức đó cũng có hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Nên nó chỉ tham gia vào quan hệ pháp luật với tư cách chủ thể chỉ khi nhà nước quy định quyền và nghĩa vụ cho nó trong lĩnh vực đó.
Do không có chức năng quản lý nhà nước nên các tổ chức thường tham gia vào các quan hệ pháp luật hành chính với tư cách là chủ thể thường. Cá biệt trong một số trường hợp khi được Nhà nước trao quyền quản lý hành chính nhà nước đối với một số công việc cụ thể, các tổ chức này có thể tham gia vào quan hệ pháp luật hành chính với tư cách là chủ thể đặc biệt- chủ thể mang quyền lực
2.4. Năng lực chủ thể của cá nhân:
Đối với cá nhân, năng lực chủ thể trong quan hệ pháp luật hành chính bao gồm năng lực pháp luật và năng lực hành vi của họ. Năng lực pháp luật là năng lực phát sinh khi cá nhân đó ra đời và kết thúc khi người đó chết. Năng lực pháp luật và năng lực hành vi không trùng khớp với nhau về thời điểm phát sinh mà năng lực pháp luật có trước làm tiền đề xuất hiện năng lực hành vi.
Năng lực pháp luật hành chính của cá nhân là khả năng cá nhân được hưởng các quyền và phải thực hiện các nghĩa vụ pháp lý hành chính nhất định do Nhà nước quy định. Năng lực hành vi hành chính của cá nhân là khả năng của cá nhân được Nhà nước thừa nhận mà với khả năng đó họ có thể tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý hành chính đồng thời phải gánh chịu những hậu quả pháp lý nhất định do những hành vi của mình mang lại. Năng lực pháp luật của cá nhân là do Nhà nước quy định. Còn năng lực hành vi hành chính của cá nhân phụ thuộc vào nhiều yếu tố: độ tuổi, trình độ học vấn, tình trạng sức khỏe, và quan trọng hơn, trong nhiều trường hợp, nó phụ thuộc vào sự thừa nhận của nhà nước.
3. Thời điểm phát sinh năng lực pháp luật hành chính:
Năng lực chủ thể của cán bộ công chức phát sinh khi cá nhân được nhà nước giao đảm nhiệm một công vụ, chức vụ nhất định trong bộ máy nhà nước và chấm dứt khi không còn đảm nhiệm công vụ, chức vụ đó nữa. Và trong năng lực chủ thể của cán bộ công chức, năng lực hành vi hành chính xuất hiện và chấm dứt đồng thời với năng lực pháp luật hành chính.
Đối với cá nhân, thời điểm phát sinh năng lực pháp luật hành chính và năng lực hành vi hành chính không giống nhau. Năng lực pháp luật hành chính phát sinh từ khi sinh ra và chấm dứt khi cá nhân chết đi. Tuy nhiên để lý giải về mặt nhận thức thế nào là sinh ra cũng như xác định được một cách chính xác thời điểm sinh ra và thời điểm chết đi đối với một cá nhân không hề đơn giản. Điều này trong khoa học và thực tiễn pháp lý các nước trên thế giới thực tế cho thấy sự lúng túng và chưa có sự thống nhất về nhận thức và cách lý giải chung.
Về thời điểm phát sinh và thời điểm chấm dứt ở đây phải phụ thuộc vào tính chất, nội dung của từng loại quan hệ pháp luật hành chính cụ thể mà Nhà nước yêu cầu cá nhân phải đáp ứng những điều kiện nhất định và khả năng thực tế của cá nhân có tham gia vào quan hệ pháp luật hành chính đó hay không, nếu tham gia thì cá nhân đó có đáp ứng đủ điều kiện để tham gia vào quan hệ pháp luật hành chính đó không…
Còn năng lực hành vi hành chính của cá nhân không chỉ phụ thuộc vào khả năng thực tế của cá nhân mà còn phụ thuộc vào cách thức nhà nước thừa nhận khả năng thực tế đó. Và thường thì nhà nước sẽ mặc nhiên thừa nhận năng lực hành vi hành chính của cá nhân khi họ đủ điều kiện nhất định hay thông qua những hành vi pháp lý cụ thể để thừa nhận năng lực đó. Ví dụ: công dân Việt Nam từ đủ 18 tuổi trở lên được phép đăng kí bằng lái xe máy
TƯ VẤN MỘT TRƯỜNG HỢP CỤ THỂ:
Tóm tắt câu hỏi:
Nhận định sau đúng hay sai?
1. Năng lực pháp luật hành chính của công dân hoàn toàn được xác định từ khi người đó đạt đến một độ tuổi nhất định.
2. Mọi công dân đủ 18 tuổi trở lên đều là chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính.
Luật sư tư vấn:
Năng lực chủ thể trong quan hệ pháp luật hành chính là khả năng chủ thể đó tham gia vào quan hệ pháp luật hành chính với tư cách chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính. Năng lực chủ thể trong quan hệ pháp luật hành chính bao gồm năng lực pháp luật hành chính và năng lực hành vi hành chính.
1. Nhận định “Năng lực pháp luật hành chính của công dân hoàn toàn được xác định từ khi người đó đạt đến một độ tuổi nhất định” là sai.
Năng lực pháp luật hành chính là khả năng cá nhân được hưởng các quyền và phải thực hiện các nghĩa vụ pháp lý hành chính do nhà nước quy định. Tuy nhiên, năng lực pháp luật hành chính còn phụ thuộc vào trình độ văn hoá, tình trạng sức khoẻ, quyết định, bản án đã có hiệu lực của Toà án… hoặc các quyết định của Cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Trong trường hợp khi một người bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi và khi có quyết định của toà án là người đó đã mất khả năng nhận thức hành vi thì người đó sẽ không có năng lực pháp luật hành chính. Tức là ngay từ thời điểm họ sinh ra họ đã mất năng lực khả năng nhận thức và điều khiển hành vi thì họ sẽ không có năng lực pháp luật hành chính.
2. Nhận định ” Mọi công dân đủ 18 tuổi trở lên đều là chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính” là sai.
Công dân trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính khi công dân có năng lực chủ thể của cá nhân trong quan hệ pháp luật hành chính. Năng lực cá nhân trong quan hệ pháp luật hành chính bao gồm năng lực pháp luật hành chính và năng lực hành vi hành chính. Năng lực pháp luật hành chính là khả năng cá nhân được hưởng các quyền và phải thực hiện các nghĩa vụ pháp lý hành chính nhất định do nhà nước quy định.
Năng lực hành vi hành chính là khả năng của cá nhân được Nhà nước thừa nhận mà với khả năng đó họ có quyền và nghĩa vụ pháp lý hành chính đồng thời phải gánh chịu những hậu quả pháp lý do hành vi của mình mang lại, cá nhân phải đạt được những điều kiện nhất định thì mới có năng lực hành vi hành chính như tuổi, sức khỏe, trình độ văn hoá… Khi một trong các yêu tố bị ảnh hưởng ví dụ như công dân đủ 18 tuổi nhưng họ lại bị mất năng lực nhận thức và điều khiển hành vi thì họ sẽ không có năng lực hành vi hành chính và công dân đó sẽ không trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính.