Theo Điều 301 Luật thương mại năm 2005: “Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thỏa thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường hợp quy định tại Điều 266 của Luật này”
Trước hết, Điều kiện để áp dụng mức phạt vi phạm theo Điều 301 Luật thương mại chính là: Có hành vi vi phạm xảy ra; Các bên có thỏa thuận phạt vi phạm trong hợp đồng; Không thuộc trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 Luật thương mại.
Theo đó, khi có vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, nếu các bên có thỏa thuận thì có thể áp dụng biện pháp phạt vi phạm và theo luật thương mại, mức phạt vi phạm ở đây là không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm. Có thể hiểu quy định này là mức phạt thực tế mà các bên có thể đưa ra là 8% nhưng phải trên phần nghĩa vụ bị vi phạm. Vì vậy, cần xác định được phần nghĩa vụ bị vi phạm là bao nhiêu để có thể tính toán ra số tiền phạt vi phạm thực tế. Tuy nhiên, đối với trường hợp vi phạm tại Điều 266 Luật Thương mại 2005 quy định về Phạt vi phạm, Bồi thường thiệt hại trong trường hợp kết quả giám định sai thì không áp dụng quy định trên.
Bản chất của hợp đồng chính là sự thỏa thuận của các bên, tuy nhiên, ở đây, pháp luật quy định “do các bên thỏa thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8%…”. Vậy, tại sao đã cho các bên tự thỏa thuận pháp luật còn quy định mức phạt tối đa để áp dụng?
Trước tiên, chúng ta cũng cần hiểu rằng, mức phạt ở đây chỉ mang tính chất cảnh cáo, răn đe các bên để các bên thực hiện đúng nghĩa vụ của mình. Tuy nhiên, thực tế, giữa các bên chủ thể hợp đồng không phải lúc nào cũng có sự bình đẳng, có rất nhiều trường hợp các công ty nhỏ giao kết hợp đồng với công ty lớn. Nếu không quy định mức phạt tối đa, khi có vi phạm xảy ra, công ty có lợi thế hơn sẽ lợi dụng để gây sức ép, khó khăn cho công ty nhỏ. Chính vì thế, pháp luật quy định mức phạt tối đa để tránh trường hợp trên, để tạo ra sự bình đẳng hơn cho các chủ thể khi giao kết hợp đồng.
Cũng phải nói đến, ngoài Luật Thương mại, Bộ luật dân sự cũng quy định về phạt vi phạm trong hợp đồng nhưng chỉ quy định chung chung là do các bên tự thỏa thuận. (theo khoản 2 Điều 422 “Bộ luật dân sự năm 2015”).
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng, quy định về mức phạt vi phạm đã giúp được các công ty có trách nhiệm hơn trong việc thực hiện hợp đồng, quy định mức phạt tối đa cũng giúp được các công ty có lợi thế yếu hơn có thể thực hiện được mức phạt khi có vi phạm hợp đồng xảy ra, tránh được trường hợp lợi dụng mức phạt mà gây khó dễ cho các chủ thể khác.
Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy rằng, hiện nay, vẫn còn tồn tại một số hạn chế khi áp dụng Điều 301 Luật thương mại năm 2005.
Thứ nhất, pháp luật quy định mức phạt vi phạm “do các bên thỏa thuận, nhưng không quá 8%…”. Thực tế, khi nói đến việc do các bên thỏa thuận rất dễ dẫn đến tình tạng các bên thỏa thuận vượt mức quy định, ví dụ như thỏa thuận 15%. Vậy, khi đó sẽ giải quyết như thế nào? Thông thường, trong tình huống trên, Tòa án sẽ áp dụng mức phạt từ 8% trở xuống để giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại cho bên vi phạm. Bản chất của hợp đồng là ý chí của các bên, các bên sẽ phải chấp nhận chịu phạt nếu có vi phạm hợp đồng. Việc thỏa thuận vượt mức quy định của Luật thương mại là do các bên chưa hiểu đầy đủ và chính xác về quy định.
Thứ hai, việc xác định phần nghĩa vụ thực tế bị vi phạm không dễ dàng, đặc biệt là đối với các hợp đồng dịch vụ hay một công việc phải thực hiện.
Thông thường, trong những trường hợp như trên, do hợp đồng dịch vụ sẽ bao gôm một gói dịch vụ cụ thể, trong đó có nhiều dịch vụ nhỏ. Theo đó, người ta sẽ phạt vi phạm: không quá 8% giá trị của một gói dịch vụ hay nói cách khác là không quá 8% giá trị của hợp đồng.
Thứ ba, Trường hợp các bên chủ thể có thỏa thuận về việc sẽ áp dụng chế tài phạt vi phạm nhưng lại không có thỏa thuận mức phạt cụ thể là bao nhiêu thì sẽ áp dụng như thế nào? Trường hợp này, vẫn tồn tại những ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, nếu các bên có thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận cụ thể trong hợp đồng về mức phạt thì cơ quan tài phán sẽ cân nhắc để áp dụng mức phạt tùy thuộc vào mức độ vi phạm và nguyên nhân của vi phạm nhưng tối đa không quá 8% nghĩa vụ bị vi phạm. Cũng có ý kiến khác lại cho rằng: trong trường hợp này không đủ căn cứ để áp dụng chế tài phạt vi phạm, cơ quan tài phán không thể tự quyết định mức phạt trong giới hạn phạt đã được pháp luật quy định. Đấy vẫn là hạn chế mà pháp luật Thương mại chưa thể lường trước hết được.