Tội đánh bạc là loại tội phạm phổ biến, gây ảnh hưởng xấu tới an ninh trật tự, an toàn xã hội để ngăn chặn và phòng ngừa tội phạm này Bộ luật Hình sự đã quy định hình phạt nghiêm khắc. Vậy trong trường hợp người phạm tội đánh bạc có nhiều tình tiết giảm nhẹ thì quyết định hình phạt như thế nào?
Mục lục bài viết
1. Mức hình phạt tội đánh bạc khi có nhiều tình tiết giảm nhẹ?
Anh Hải ở Quảng Ninh có câu hỏi gửi tới tổng đài tư vấn pháp luật của Luật Dương Gia như sau:
Anh trai tôi bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc tổng giá trị trên chiếu bạc là 45 triệu đồng, anh trai tôi có một số tình tiết giảm nhẹ là lao động chính trong gia đình thuộc hộ cận nghèo có 3 con nhỏ và mẹ già, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và gia đình tôi có ông nội là liệt sĩ. Liệu với những tình tiết giảm nhẹ này anh trai tôi có được hưởng án treo hay không?
Cảm ơn anh Hải đã tin tưởng và gửi câu hỏi tới Luật Dương Gia về vấn đề của anh chúng tôi xin giải đáp như sau:
1.1. Quy định về hình phạt tội đánh bạc
Đầu tiên, để biết được trường hợp của anh trai bạn có được hưởng án treo hay không ta cần tìm hiểu về hình phạt của tội đánh bạc quy định tại Điều 321 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 theo đó:
– Phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 100 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm đối với người nào có hành vi đánh bạc trái phép được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng dưới bất kỳ hình thức nào hoặc dưới 5 triệu đồng nhưng đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật Hình sự hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật hình sự nhưng chưa được xóa án tích mà vẫn tiếp tục vi phạm.
– Phạt tù từ 03 năm đến 07 năm tù nếu người phạm tội thỏa mãn một trong các trường hợp sau đây:
+ Người phạm tội đã việc đánh bạc từ 05 lần trở lên mang tính chất chuyên nghiệp;
+ Sử dụng tiền hoặc hiện vật dùng đánh có giá trị từ 50 triệu đồng trở lên để đánh bạc;
+ Sử dụng mạng internet, phương tiện điện tử, mạng viễn thông, mạng máy tính để thực hiện hành vi phạm tội;
+ Tái phạm nguy hiểm có nghĩa là người phạm tội đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý; Hoặc người phạm tội đã từng bị kết án về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng hoặc rất biệt nghiêm trọng với lỗi cố ý, mặc dù chưa được xóa án tích nhưng lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng với lỗi cố ý.
Ngoài bị áp dụng hình phạt tù có thời hạn người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 50 triệu đồng.
Như vậy, trong trường hợp của anh trai bạn đang thuộc khung hình phạt cơ bản của tội đánh bạc là phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 100 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
1.2. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy tại điều 51 Bộ luật hình sự 2015 như sau:
– Người phạm tội đã thực hiện hành vi tội phạm và nếu không có gì ngăn cản thì tác hại của tội phạm sẽ xảy ra hoặc xảy ra lớn hơn nhưng người phạm tội đã ngăn chặn nhanh chóng để không gây tác hại xảy ra hoặc đã hạn chế được tác hại của tội phạm;
– Người phạm tội đã gây ra hậu quả thiệt hại và đã tự nguyện (không phải bị ép buộc) thực hiện các hành vi khắc phục hậu quả của tội phạm là sửa chữa tài sản bị hư hỏng, bồi thường về vật chất, thiệt hại về tài sản thể chất, tinh thần hoặc có những hành vi khắc phục hậu quả của tội phạm.
Đồng thời phản ánh thái độ ăn năn, hối cải của người phạm tội đối với hành vi phạm tội của mình;
– Phạm tội có động cơ là phòng vệ hành vi phạm tội xảy ra là do người phòng vệ đã vượt quá giới hạn luật cho phép;
– Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết hành vi được thực hiện gây ra thiệt hại lớn hơn một cách đáng kể so với việc không thực hiện hành vi đó. Hành vi được thực hiện để bảo vệ lợi ích không được pháp luật bảo vệ hành vi được thực hiện không phải là hành động tốt nhất tại thời điểm xảy ra tình thế cấp thiết;
– Phạm tội trong trường hợp bắt giữ người phạm tội nhưng khi thực hiện việc này, họ đã dùng vũ lực gây thiệt hại cho người bị bắt giữ quá mức cần thiết;
– Người phạm tội thực hiện tội phạm trong trạng thái bị hạn chế về khả năng kiểm soát khả năng điều khiển hành vi do tác động của hành vi trái pháp luật của nạn nhân;
– Người phạm tội thực hiện tội phạm vì bị chi phối bởi hoàn cảnh đặc biệt khó khăn do khách quan tạo ra.Trong đó hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, được hiểu là hoàn cảnh khó khăn hơn nhiều so với mức bình thường, có thể do thiên tai, dịch bệnh, hỏa hoạn, tai nạn hoặc do nguyên nhân khác;
– Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn có nguyên nhân là nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người phạm tội;
– Người phạm tội lần đầu tiên phạm tội và tội phạm đã được thực hiện phải là loại tội phạm ít nghiêm trọng;
– Người phạm tội bị chi phối bởi ý chí của người khác thông qua hành vi đe dọa hoặc cướng bức do bị đe dọa hoặc cướng bức nên người phạm tội không hoàn toàn tự do lựa chọn điều khiển hành vi của mình mà bị buộc phải thực hiện tội phạm theo ý chí của người có hành vi đe dọa hoặc cưỡng bức;
– Phạm tội trong tình trạng bị hạn chế, khả năng nhận thức, hành vi và tình trạng này gây ra không phải do lỗi của chủ thể ví dụ như do bị lừa dối nên đã sử dụng nhầm chất kích thích mạnh dẫn đến phạm tội;
– Người phạm tội do trình độ nhận thức lạc hậu nên có sự nhận thức hạn chế, tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi và do vậy đã thực hiện tội phạm;
– Người phụ nữ phạm tội trong thời gian đang mang thai;
– Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên do đặc điểm tâm sinh lý ở lứa tuổi này;
– Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo đối với người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng.
– Trường hợp người phạm tội mà chủ thể đã phạm tội khi đang trong tình trạng bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc hạn chế khả năng điều khiển hành vi do mắc bệnh.
– Người phạm tội tự thú nghĩa là mặc dù chưa bị phát hiện nhưng đã tự đến cơ quan có thẩm quyền trình diện và khai báo về hành vi phạm tội của mình.
– Người phạm tội đã khai rõ và đúng sự thật tất cả những gì liên quan đến hành vi phạm tội mà họ đã thực hiện và trong quá trình khai báo luôn thành khẩn và có biểu hiện rõ thái độ hối hận về việc thực hiện hành vi phạm tội và mong muốn sửa chữa lỗi lầm thông qua việc nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tích cực lao động.
– Người phạm tội đã cung cấp các bằng chứng, tài liệu tin tức cho cơ quan có thẩm quyền hoặc làm mọi việc theo yêu cầu của các cơ quan để họ phát hiện hoặc giải quyết vụ án về tội phạm mà họ tham gia thực hiện hoặc về tội phạm khác hoặc người phạm tội khác có liên quan mà họ biết;
– Người phạm tội đã có thành tích đột xuất tương đối đặc biệt như thành tích trong cứu hỏa chống bão, lũ lụt hoặc trong việc cứu người trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. Việc lập công này đã thể hiện.Phần nào sự hối hận cũng như quyết tâm cải tạo của người phạm tội.
– Người phạm tội được tặng thưởng huân, huy chương bằng lao động sáng tạo bằng khen của chính phủ hoặc có sáng chế, phát minh có giá trị lớn hoặc nhiều năm được công nhận là chiến sĩ thi đua
– Người phạm tội là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ, người có công với cách mạng là tình tiết giảm nhẹ do xuất phát từ chính sách của nhà nước đối với người có công với cách mạng và thân nhân của liệt sĩ trong các cuộc kháng chiến bảo vệ tổ quốc
Lưu ý:
– Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ khi quyết định hình phạt nhưng cần phải quy định rõ lý do giảm nhẹ trong bản án.
– Không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt đối với các tình tiết giảm nhẹ đã được BLHS quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung.
Như vậy khi quyết định hình hình phạt trong trường hợp này anh trai của bạn sẽ được áp dụng tình các tiết giảm nhẹ tại điểm s, x khoản 1 và khoản 2 Điều 51 BLHS với tình tiết là lao động chính trong gia đình thuộc hộ cận nghèo.
1.3. Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt
Căn cứ Điều 54 Bộ luật hình sự 2015 quy định cụ thể về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng:
– Khi người phạm tội có tối thiểu 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của BLHS thì Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng cho người phạm tội nhưng phải trong khung hình phạt liền kề trước hoặc liền kề sau nhẹ hơn của điều luật.
– Nếu người phạm tội lần đầu là người giúp sức có vai trò không đáng kể trong vụ án đồng phạm thì Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không nhất thiết phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật.
– Tòa án có thể quyết định chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn trong trường hợp người phạm tội có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều 54 BLHS nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt duy nhất hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất. Đồng thời phải nêu rõ lý do của việc giảm nhẹ trong bản án.
Như vậy, đối với trường hợp của anh trai bạn do có 2 tình tiết giảm nhẹ trở lên và thuộc vào khung hình phạt nhẹ nhất tội đánh bạc nên có thể được Tòa án áp dụng mức hình phạt khác nhẹ hơn mức phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 100 triệu đồng tuy nhiên không được thấp hơn mức tối thiểu của hình phạt tiền là 1 triệu đồng quy định tại Điều 35 BLHS.
2. Khi nào được hưởng án treo tội đánh bạc?
Người phạm tội đánh bạc có thể được hưởng án treo nếu thỏa mán
– Bị xử phạt tù dưới 03 năm;
– Nhân thân của người bị xử phạt tù có là trừ lần phạm tội này, người phạm tội hoàn toàn chấp hành tốt các chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú và nơi làm việc.
– Có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên và trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự và không có bất kì tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
– Có nơi cư trú rõ ràng hoặc nơi làm việc ổn định.
– Nếu người phạm tội có khả năng tự cải tạo tốt và việc cho họ hưởng án treo không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, không gây nguy hiểm cho xã hội mà Tòa án xem xét thấy không cần thiết phải bắt chấp hành hình phạt tù.
Các văn bản pháp luật sử dụng trong bài viết:
Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.