Hiện nay, theo quy định của Bộ luật hình sự, Nhà nước có chính sách khoan hồng miễn trách nhiệm hình sự cho đối tượng phạm tội nếu đáp ứng đủ các điều kiện. Vậy miễn trách nhiệm hình sự có phải là không phạm tội không?
Mục lục bài viết
1. Hiểu thế nào là miễn trách nhiệm hình sự?
Miễn trách nhiệm hình sự được hiểu là trong các giai đoạn tố tụng, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án sẽ xem xét quyết định bị can, bị cáo sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự nếu như nhận thấy hành vi phạm tội hoặc người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa và không cần thực hiên biện pháp cưỡng chế giam tù đối tượng phạm tội và vẫn đảm bảo được công tác phòng, chống tội phạm.
Trên thực tế, đối tượng được miễn trách nhiệm hình sự sẽ được thể hiện trong các văn bản do cơ quan tố tụng ban hành như:
– Quyết định đình chỉ điều tra vụ án.
– Quyết định đình chỉ vụ án.
– Bản án của Tòa án thể hiện miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo.
2. Miễn trách nhiệm hình sự có phải là không phạm tội không?
Hiện nay, việc xác định một người được miễn trách nhiệm hình sự có được coi là không có tội hay không đến nay vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm trái chiều. Có những quan điểm xác định rằng đối tượng phạm tội, tuy nhiên đáp ứng được đủ điều kiện chính sách khoan hồng của Nhà nước sẽ được miễn trách nhiệm hình sự. Có quan điểm lại cho rằng việc Nhà nước miễn trách nhiệm hình sự cũng đồng thời hiểu đối tượng không còn phạm tội.
Miễn trách nhiệm hình sự được coi là một trong những chính sách nhân đạo, khoan hồng của Nhà nước. Khi đối tượng phạm tội đáp ứng đủ các điều kiện được miễn trách nhiệm hình sự theo luật đinh thì cơ quan Nhà nước sẽ ra quyết định miễn trách nhiệm hình sự cho đối tượng đó.
Căn cứ khoản 2 Điều 8 Bộ luật hình sự có quy định rằng những hành vi có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì sẽ không phải là tội phạm, khi đó sẽ được xử lý bằng các biện pháp khác.
Như vậy, tùy từng mức độ nguy hiểm, tính chất của hành vi phạm tội sẽ quyết định đến trách nhiệm hình sự. Nếu tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì hành vi vi phạm pháp luật đó sẽ được xử lý bằng các biện pháp khác mà không phải là chế tài hình sự.
Bản chất của miễn trách nhiệm hình sự được hiểu là bị cáo có hành vi vi phạm pháp luật, hành vi đó đã cấu thành tội phạm nhưng do có căn cứ là chính sách khoan hồng của Nhà nước, do nguyên tắc phân hóa phân loại nên được quyết định cho miễn trách nhiệm hình sự chứ không phải đối tượng đó không có tội. Do vậy, có thể thấy miễn trách nhiệm hình sự không đồng nghĩa với việc đối tượng không phạm tội.
3. Các căn cứ được miễn trách nhiệm hình sự:
Căn cứ Điều 29 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định những căn cứ để miễn trách nhiệm hình sự với người phạm tội bao gồm:
– Có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa trong quá trình điều tra, truy tố hoặc xét xử. Việc thay đổi này thể hiện trong các quyết định của Nhà nước có liên quan đến hành vi phạm tội như Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh, Nghị quyết…
– Khi có quyết định đại xá của cơ quan Nhà nước. Quyết định đại xá này thuộc về thẩm quyền của Quốc hội (căn cứ Điều 70 Hiến pháp năm 2013).
– Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, xét thấy người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa do sự chuyển biến của tình hình.
– Đối tượng phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội.
– Người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận trước khi hành vi phạm tội bị phát giác.
– Đối tượng phạm tội nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự hoặc tài sản của người khác nhưng đã có tinh thần tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả, được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự.
4. Phân biệt miễn trách nhiệm hình sự và miễn hình phạt:
STT | Tiêu chí | Miễn trách nhiệm hình sự | Miễn hình phạt |
1 | Điều kiện | Có căn cứ miễn trách nhiệm hình sự hoặc có thể miễn trách nhiệm hình sự theo Điều 29 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi năm 2017 như: – Có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa trong quá trình điều tra, truy tố hoặc xét xử. Việc thay đổi này thể hiện trong các quyết định của Nhà nước có liên quan đến hành vi phạm tội như Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh, Nghị quyết… – Khi có quyết định đại xá của cơ quan Nhà nước. Quyết định đại xá này thuộc về thẩm quyền của Quốc hội (căn cứ Điều 70 Hiến pháp năm 2013). – Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, xét thấy người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa do sự chuyển biến của tình hình. – Đối tượng phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội. – Người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận trước khi hành vi phạm tội bị phát giác. – Đối tượng phạm tội nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự hoặc tài sản của người khác nhưng đã có tinh thần tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả, được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự.
| Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1, 2 Điều 54 Bộ luật Hình sự, đáng được khoan hồng đặc biệt nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự. |
2 | Đối tượng | Có thể là người đã bị kết án hoặc chưa bị kết án. | Người đã bị kết án bằng một bản án có hiệu lực pháp luật. |
3 | Thẩm quyền áp dụng | Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án | Tòa án |
4 | Trường hợp được miễn | – Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội (Điều 16); – Người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ…(Điều 91); – Người đã nhận làm gián điệp, nhưng không thực hiện nhiệm vụ được giao và tự thú, thành khẩn khai báo (Điều 110); – Người không tố giác có hành động can ngăn người phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm (khoản 3 Điều 390) | Được quy định tại Điều 59 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, cụ thể gồm: – Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ theo quy định. – Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể. |
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung 2017.