Phạm tội quả tang là trường hợp phạm tội đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm mà bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt. Trong trường hợp này, bất kỳ ai cũng có quyền bắt người phạm tội quả tang và đưa đến cơ quan có thẩm quyền.
Mục lục bài viết
1. Biên bản bắt người phạm tội quả tang là gì?
Biên bản bắt người phạm tội quả tang là văn bản ghi nhận sự kiện, thông tin nhân thân, vụ việc phạm tội quả tang do cơ quan có thẩm quyền lập là căn cứ quan trọng chứng mình cho qua trình bắt người hợp pháp
Biên bản bắt người phạm tội được dùng làm căn cứ chứng minh sự việc đã diễn ra, là văn bản ghi nhận các thông tin sơ bộ ban đầu, làm cơ sở để cơ quan có thẩm quyền thực hiện nghiệp vụ xác minh, điều tra, truy tố và xét xử.
2. Mẫu biên bản bắt người phạm tội quả tang:
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
BIÊN BẢN BẮT NGƯỜI PHẠM TỘI QUẢ TANG
Hồi ….. giờ ….. ngày….. tháng ….. năm ….. tại ….
Chúng tôi gồm:
Ông/bà: ….. Chức vụ …..
Ông/bà: ……
Ông/bà: ……
Ông/bà: …..
Căn cứ Điều 111, Điều 133 Bộ luật Tố tụng hình sự, tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với(1):
Họ tên: …… Giới tính:
Tên gọi khác: ……
Sinh ngày …… tháng ……. năm ………tại…
Quốc tịch: …….; Dân tộc: …..; Tôn giáo: ….
Nghề nghiệp: ……
Số CMND/Thẻ CCCD/Hộ chiếu:……
cấp ngày…… tháng ….. năm …. Nơi cấp:…
Nơi cư trú:…..
1. Tóm tắt nội dung sự việc, hành vi phạm tội quả tang và diễn biến quá trình bắt như sau(2): ……
2. Lời khai của người phạm tội (Chú ý ghi số điện thoại mà họ đã sử dụng trước khi bị bắt quả tang): ……
3. Lời khai của người bị hại (Chú ý ghi số điện thoại để liên hệ khi cần thiết):……
4. Lời khai của người làm chứng/người chứng kiến (Chú ý ghi số điện thoại để liên hệ khi cần thiết): ….
5. Tài liệu, đồ vật thu giữ, tạm giữ (nếu có):……
6. Thái độ chấp hành của người bị bắt:……
7. Tình trạng sức khỏe người bị bắt(3):……
Việc bắt người phạm tội quả tang kết thúc vào hồi …… giờ ……… ngày …….. tháng …… năm…….
Biên bản này đã đọc cho những người có tên trên nghe, công nhận đúng và cùng ký tên xác nhận dưới đây.
NGƯỜI BỊ BẮT
NGƯỜI BỊ HẠI
(Nếu có)
NGƯỜI CHỨNG KIẾN
NGƯỜI LẬP BIÊN BẢN
NGƯỜI LÀM CHỨNG
3. Hướng dẫn soạn thảo mẫu biên bản bắt người phạm tội quả tang:
(1) Trường hợp có nhiều người phạm tội quả tang thì ghi lần lượt nhân thân từng người theo yêu cầu trên, sau đó ghi tóm tắt diễn biến, nội dung sự việc, lời khai của từng người bị bắt và những đồ vật, tài liệu thu giữ; nếu là đồ vật, tài liệu cần niêm phong thì phải niêm phong tại chỗ và ghi vào biên bản.
(2) Nếu vụ việc có hiện trường thì phải bảo vệ hiện trường và tổ chức khám nghiệm hiện trường theo quy định của pháp luật.
(3) Sức khỏe bình thường hoặc có thương tích, bệnh lý.
4. Quy định về bắt người phạm tội quả tang trong các Bộ luật Hình sự từ năm 1968 đến nay:
4.1. Quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về Bắt người phạm tội quả tang:
Điều 111
“1. Đối với người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm mà bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt thì bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và giải ngay người bị bắt đến cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản tiếp nhận và giải ngay người bị bắt hoặc báo ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền.
2. Khi bắt người phạm tội quả tang thì người nào cũng có quyền tước vũ khí, hung khí của người bị bắt.
3. Trường hợp Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an phát hiện bắt giữ, tiếp nhận người phạm tội quả tang thì thu giữ, tạm giữ vũ khí, hung khí và bảo quản tài liệu, đồ vật có liên quan, lập biên bản bắt giữ người, lấy lời khai ban đầu, bảo vệ hiện trường theo quy định của pháp luật; giải ngay người bị bắt hoặc báo ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền.”
4.2. Sự khác biệt giữa quy định về bắt người phạm tội quả tang trong các Bộ luật Hình sự từ năm 1968 đến nay:
Biện pháp bắt người phạm tội quả tang trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thời kỳ năm 1988 đến nay đã có nhiều thay đổi, cụ thể:
Về căn cứ áp dụng, theo khoản 1 điều 64
Về thẩm quyền bắt người phạm tội quả tạng, Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 quy định bất kỳ ai cũng có quyền bắt và “khi bắt người phạm tội quả tang hoặc người đang bị truy nã thì người nào cũng có quyền tước vũ khí của người bị bắt.”
Về trình tự, thủ tục bắt, cũng theo khoản 1 điều 64 Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 khi bắt người phạm tội quả tang không cần lệnh hay quyết định của cá nhân hoặc cơ quan nào, đồng thời “giải ngay đến cơ quan công an, Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất. Các cơ quan nà phải lập biên bản và giải ngay người bị bắt đến cơ quan điều tra có thẩm quyền.”
Ngoài ra, khoản 1 điều 65 Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 còn quy định cụ thể thông báo về việc bắt: “Người ra lệnh bắt phải thông báo nga cho gia đình người đã bị bắt, chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó cư trú hoặc làm việc biết. Nếu thông báo cản trở việc điều tra thì sau khi cản trở đó không còn nữa, người ra lệnh bắt phải thông báo ngày (điều 67).
Rõ ràng, Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 đã quy định chặt chẽ, đầy đủ hơn về biện pháp bắt người phạm tội quả tang trên các phương diện: thẩm quyền, căn cứ áp dụng, trình tự, thủ tục và những việc cần làm ngay sau khi bắt cũng như thông báo về việc bắt.
Về căn cứ bắt, thẩm quyền bắt và trình tự, thủ tục bắt người phạm tội quả tang,
Đối với thông báo về việc bắt, Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 chỉ quy định trách nhiệm thông báo thuộc về người ra lệnh bắt. Tuy nhiên, đối với bắt người phạm tội quả tang hoặc bắt người đang bị truy nã thì bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và giải ngay đến cơ quan công an, Viện kiểm sát hoặc ủy ban nhân dân nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản và giải ngay người bị bắt đến cơ quan điều tra có thẩm quyền (khoản 1 điều 64 Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988). Rõ ràng trong trường hợp này, cơ quan điều tra nhận người bị bắt lạu không phải thông báo về việc bắt. Điều này là không logic và thiếu hợp lý. Do đó, điều 85 bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, bố sung cả cơ quan điều tra nhận người bị bắt cũng có trách nhiệm thông báo về việc bắt, cụ thể “người ra lệnh bắt, cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay cho gia đình người đã bị bắt, chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó cư trú hoặc làm việc biết. Nếu thông báo cản trở việc điều tra thì sau khi cản trở đó không còn nữa, người ra lệnh bắt, cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay.”
Trong bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 và bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, bắt người phạm tội quả tang và bắt người đang bị truy nã được quy định chung tại một điều luật. Tuy nhiên do bản chất của bắt người phạm tội quả tang khác so với bắt người đang bị truy nã, do đó để bảo đảm ra ràng bộ luật tố tụng hình sư năm 2015 đã tách nội dung này thành hai điều luật riêng biệt quy định về bắt người phạm tội quả và bắt người phạm tội đang bị truy nã.
Về căn cứ bắt, thẩm quyền bắt người phạm tội quả tang, bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 giữ nguyên so với bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
Về nội dung, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã bổ sung trách nhiệm trách nhiệm của công an xã, phường, thị trấn, đồn công an trong việc phát hiện bắt giữ, tiếp nhận người phạm tội quả tang để tạo cơ sở pháp lý cho các lực lượng này thực hiện nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu thực tiễn, cụ thể: “Trường hợp Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an phát hiện bắt giữ, tiếp nhận người phạm tội quả tang thì thu giữ, tạm giữ vũ khí, hung khí và bảo quản tài liệu, đồ vật có liên quan, lập biên bản bắt giữ người, lấy lời khai ban đầu, bảo vệ hiện trường theo quy định của pháp luật; giải ngay người bị bắt hoặc báo ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền”
Đối với những việc cần làm ngay say khi bắt người hoặc nhận người bị bắt nói chung và trong trường hợp phạm tội quả tang nói riêng, theo khoản 1 điều 114 bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cũng đã rút ngắn thời gian xem xét việc ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt từ 24 giờ xuống còn 12 giờ, cụ thể: “Sau khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người hoặc nhận người bị bắt, bị giữ, cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải lấy lời khai ngay và trong thời hạn 12 giờ phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt”