Hợp đồng trong lĩnh vực đầu tư bao gồm nhiều hình thức hợp đồng khác nhau, là văn bản ghi lại sự thỏa thuận của các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các vấn đề liên quan đến công sức đóng góp và tài sản trong quá trình hợp tác đầu tư. Dưới đây là một số lỗi thường gặp đối với hợp đồng trong lĩnh vực đầu tư cần phải lưu ý.
Mục lục bài viết
1. Lỗi thường gặp đối với hợp đồng trong lĩnh vực đầu tư:
Có thể hiểu, đầu tư là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, sử dụng các nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và nguồn lực và trí tuệ để thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh theo các loại hình khác nhau, theo các cách thức khác nhau do pháp luật quy định nhằm mục đích phát sinh lợi nhuận, phát sinh lợi ích kinh tế xã hội khác. Trong quá trình ký kết hợp đồng trong lĩnh vực đầu tư, có thể kể đến một số lỗi thường gặp cần phải lưu ý như sau:
Thứ nhất, các bên trong quá trình ký kết hợp đồng trong lĩnh vực đầu tư không áp dụng đúng căn cứ pháp luật. Tức là, việc các bên trong hợp đồng thỏa thuận sai căn cứ pháp luật dẫn đến nhiều rủi ro không đáng có trong quá trình thực hiện hợp đồng. Việc xác định không đúng căn cứ pháp lý có thể dẫn đến hợp đồng trong lĩnh vực đầu tư bị vô hiệu và không được pháp luật bảo vệ. Căn cứ pháp luật khi soạn thảo hợp đồng trong lĩnh vực đầu tư có thể kể đến như Bộ luật dân sự năm 2015 đóng vai trò là Pháp luật cơ bản và luật khung về vấn đề hợp đồng nói chung,
Thứ hai, giao kết hợp đồng không đúng đối tượng chủ thể. Nghĩa là người tham gia giao kết hợp đồng trong lĩnh vực đầu tư không có tư cách để ký kết hợp đồng. Căn cứ theo quy định tại Điều 3 của Văn bản hợp nhất luật đầu tư năm 2022, hợp đồng hợp tác kinh doanh được ký kết giữa các nhà đầu tư nhằm mục đích hợp tác kinh doanh để phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm mà không cần phải thành lập các tổ chức kinh tế. Vì vậy cho nên hình thức hợp tác này tương đối tiện lợi cho các nhà đầu tư. Thứ ba, chủ thể của hình thức hợp đồng này là mọi tổ chức và cá nhân được xác định là nhà đầu tư. Trong đó bao gồm cả nhà đầu tư trong nước, nhà đầu tư nước ngoài, thuộc quyền sở hữu của nhà nước hay sở hữu tư nhân. Tùy thuộc vào mô hình dự án và nhu cầu của các nhà đầu tư mà không giới hạn về số lượng chủ thể trong hợp đồng hợp tác kinh doanh nói riêng và hợp đồng trong lĩnh vực đầu tư nói chung. Hợp đồng trong lĩnh vực đầu tư phải được lập thành văn bản phù hợp với quy định của pháp luật.
Thứ ba, giao kết hợp đồng trong lĩnh vực đầu tư không tuân thủ quy định về hình thức đã được pháp luật quy định. Việc vi phạm thời gian ở chỗ những hợp đồng trong lĩnh vực đầu tư bắt buộc phải lập thành văn bản, phải tiến hành hoạt động công chứng tại các tổ chức hành nghề công chứng hoặc chứng thực tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền tuy nhiên không được các chủ thể tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật. Hợp đồng vi phạm quy định về hình thức là một trong những yếu tố để dẫn đến hợp đồng đó bị vô hiệu căn cứ theo quy định của pháp luật.
Thứ tư, thỏa thuận mức phạt trong hợp đồng trong lĩnh vực đầu tư vượt quá quy định pháp luật. Căn cứ theo quy định tại Điều 28 của Văn bản hợp nhất luật đầu tư năm 2014 có quy định, hợp đồng hợp tác kinh doanh được ký kết giữa các nhà đầu tư trong nước sẽ được thực hiện theo quy định của pháp luật về dân sự. Như vậy có thể nói, mức phạt vi phạm hợp đồng trong lĩnh vực đầu tư không bị giới hạn theo quy định của pháp luật về thương mại. Áp dụng theo Điều 418 của Bộ luật dân sự năm 2015 thì các bên được tự do thỏa thuận mức phạt hợp đồng theo nhu cầu của các bên. Đối với các hợp đồng hợp tác kinh doanh, đối với các hợp đồng trong lĩnh vực đầu tư có sự hiện diện của cá nhân, tổ chức, công ty nước ngoài thì sẽ áp dụng theo quy định của pháp luật về thương mại và các điều ước quốc tế mà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Nếu trong các hiệp định thương mại không hạn chế về mức phạt đối với hợp đồng hợp tác đầu tư thì sẽ áp dụng theo mức giới hạn của pháp luật về thương mại đó là không vượt quá 8% phần giá trị hợp đồng bị vi phạm.
Thứ năm, nội dung trong hợp đồng đầu tư không chặt chẽ. Việc không quy định rõ ràng về nội dung hợp đồng trong lĩnh vực đầu tư đã gây ra nhiều rủi ro và tranh chấp trong quá trình thực hiện hợp đồng. Hợp đồng trong lĩnh vực đầu tư thông thường sẽ bao gồm các nội dung cơ bản sau: Mục tiêu và phạm vi hoạt động đầu tư kinh doanh, trách nhiệm của các bên do vi phạm hợp đồng đầu tư và phương thức giải quyết tranh chấp, họ tên và địa chỉ của người đại diện có thẩm quyền của các bên tham gia ký kết hợp đồng đầu tư, địa chỉ thực hiện giao dịch và địa chỉ nơi thực hiện dự án đầu tư, đóng góp của các bên trong quá trình tham gia hợp đồng, phân chia kết quả và phân chia lợi nhuận trong quá trình đầu tư kinh doanh của các bên, quy định về tiến độ thực hiện hợp đồng, thời hạn thực hiện hợp đồng, quyền và nghĩa vụ của các bên trong quá trình tham gia hợp đồng đầu tư, quy định về sửa đổi hợp đồng, chuyển nhượng hợp đồng, chấm dứt hợp đồng. Bên cạnh đó, nội dung hợp đồng trong lĩnh vực đầu tư do các bên ký kết có thể sẽ không đảm bảo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và trung thực. Cần phải đặc biệt lưu ý về vấn đề này trong quá trình ký kết hợp đồng để đảm bảo tối đa quyền lợi của các bên và không vi phạm quy định của pháp luật.
2. Nguyên tắc kí kết đối với hợp đồng trong lĩnh vực đầu tư:
Căn cứ theo quy định tại Điều 3 của Bộ luật dân sự năm 2015, khi ký kết hợp đồng nói chung và hợp đồng trong lĩnh vực đầu tư nói riêng, các bên tham gia cần phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
– Mọi cá nhân, pháp nhân đều bình đẳng, không được lấy bất kỳ lý do nào để thực hiện hành vi phân biệt đối xử, được pháp luật bảo hộ như nhau về các quyền nhân thân và quyền tài sản;
– Cá nhân, pháp nhân xác lập và thực hiện, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của mình cần phải được thực hiện dựa trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, tự nguyện thỏa thuận và thiện chí. Mọi cam kết và thỏa thuận không vi phạm điều cấm của pháp luật, không được trái đạo đức xã hội sẽ có hiệu lực thực hiện đối với các bên, các bên cần phải tôn trọng và tuân thủ;
– Cá nhân và pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của mình một cách trung thực và thiện chí;
– Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự sẽ không được xâm hại đến lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân và tổ chức khác trong xã hội;
– Các cá nhân và pháp nhân phải tự chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự của mình.
3. Quy định về đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (hợp đồng BCC):
Pháp luật hiện nay đã có những quy định cụ thể về đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (hay còn được gọi là hợp đồng BCC). Căn cứ theo quy định tại Điều 27 của Văn bản hợp nhất luật đầu tư năm 2022 có quy định về đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh trong lĩnh vực đầu tư. Cụ thể như sau:
– Hợp đồng hợp tác đầu tư được ký kết giữa các chủ thể là nhà đầu tư trong nước sẽ được thực hiện theo quy định của pháp luật về dân sự;
– Hợp đồng hợp tác đầu tư được ký kết giữa các nhà đầu tư trong nước với các nhà đầu tư nước ngoài, hợp đồng hợp tác đầu tư được ký kết giữa các nhà đầu tư nước ngoài với nhau sẽ cần phải thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư theo quy định tại Điều 38 của Văn bản hợp nhất luật đầu tư năm 2022;
– Các bên tham gia hợp đồng hợp tác đầu tư sẽ thành lập ban điều phối để thực hiện hợp đồng hợp tác đầu tư. Chức năng và nhiệm vụ, quyền hạn của ban điều buổi sẽ do các bên thỏa thuận.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Dân sự năm 2015;
–
– Văn bản hợp nhất 17/VBHN-VPQH 2019 Luật Thương mại.