khi mục đích của việc truy cứu trách nhiệm hình sự chủ thể phạm tội cũng như áp dụng hình phạt và các biện pháp cưỡng chế hình sự khác đã đạt được, việc tiếp tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với chủ thể phạm tội đã không còn cần thiết nên Nhà nước không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với chủ thể phạm tội nữa.
Mục lục bài viết
1. Không truy cứu trách nhiệm hình sự do hết thời hiệu trong lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam:
1.1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng 8 năm 1945:
Quy định về việc không truy cứu trách nhiệm hình sự khi hết thời hiệu mới lần đầu được ghi nhận trong Hoàng Việt Hình Luật (Hay còn gọi là Bộ luật Hình sự Trung Kỳ – 1933). Cụ thể, các nhà làm luật Trung Kỳ đã dành hẳn một chương có tên là “Kỳ hạn trước tiêu” gồm 11 điều luật quy định những vấn đề liên quan đến thời gian truy cứu, thi hành tội danh đã xử, trong đó giải thích rõ “Thuộc về hình, trước tiêu là một thể lệ đặt ra để câm không được truy cứu, hay là thi hành tội danh đã xử đoán sau một thời gian định ở trong luật”.
1.2. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 (thời kì hiện đại):
Trong BLHS 1985, các nhà làm luật đã chính thức ghi nhận việc không truy cứu trách nhiệm hình sự do hết thời hiệu tại Điều 45 (Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự). Tuy nhiên, BLHS 1985 vẫn còn thiếu sót quy phạm khẳng định rõ bản chất pháp lý của phạm trù này cũng như chưa ghi nhận một số khái niệm quan trọng liên quan như thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hay trao quyền tùy nghi cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Toà án nhân dân tối cao trong việc không áp dụng thời hiệu trong trường hợp đặc biệt.
Đến BLHS 1999, các quy định về không truy cứu trách nhiệm hình sự do hết thời hiệu đã được hoàn thiện hơn khi bổ sung định nghĩa pháp lý của khái niệm thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với từng loại tội phạm cũng được phân định một cách rõ ràng hơn. Bên cạnh đó, BLHS 1999 cũng bỏ đi quyền không áp dụng thời hiệu trong trường hợp đặc biệt của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao trong BLHS 1985 mà thay vào đó bổ sung thêm một trường hợp không áp dụng thời hiệu là các tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia tại chương XI.
Tiếp đó, BLHS 2015 đã tiếp tục ghi nhận việc không truy cứu trách nhiệm hình sự do hết thời hiệu trong đó điểm nổi bật nhất chính là việc mở rộng phạm vi không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm so với BLHS 1999. Bên cạnh đó, việc quy định “Chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự” là một trong những điều kiện để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại tại Điều 75 BLHS cũng khẳng định thêm ngoài chủ thể là cá nhân thì pháp nhân thương mại cũng là chủ thể được hưởng chế định nhân đạo Không truy cứu trách nhiệm hình sự do hết thời hiệu khi đáp ứng các điều kiện nhất định mà pháp luật hình sự quy định.
2. Không truy cứu trách nhiệm hình sự do hết thời hiệu trong pháp luật một số quốc gia trên thế giới:
2.1. Pháp luật hình sự Liên bang Nga:
Trong BLHS Liên bang Nga năm 1996, trường hợp không truy cứu trách nhiệm hình sự do hết thời hiệu được ghi nhận một cách độc lập với tư cách là một trong ba trường hợp miễn trách nhiệm hình sự trong chế định miễn trách nhiệm hình sự tại Điều 78. Việc xem xét không truy cứu trách nhiệm hình sự do thời hiệu dựa trên tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhưng có thể thấy thời hiệu để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với mỗi loại tội phạm tương đối ngắn. BLHS Liên bang Nga năm 1996 còn dành riêng một quy định về việc áp dụng quy định này đối với người chưa thành niên phạm tội, tại Điều 94 như sau: “Thời hiệu đã được xem xét tại các điều 78 và 83 Bộ luật này khi miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt cho người chưa thành niên thì được giảm đi một nửa”.
2.2. Pháp luật hình sự Trung Quốc:
Vấn đề không truy cứu trách nhiệm hình sự do hết thời hiệu cũng được ghi nhận trong BLHS Trung Quốc năm 1997, khi Bộ luật này dành riêng một chương để quy định về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự với 3 điều trong đó quy định không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội nếu đã qua các thời hạn BLHS quy định. Có một điều đặc biệt ở đây là trường hợp đã quá thời hạn 20 năm nhưng nếu xét thấy vẫn cần thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì phải được Viện kiểm sát nhân dân tối cao phê chuẩn. BLHS Trung Quốc năm 1997 cũng quy định rõ ràng cách tính thời hiệu để truy cứu trách nhiệm hình sự để các cơ quan tư pháp có thể dễ dàng đánh giá, áp dụng.
2.3. Pháp luật hình sự Vương quốc Anh:
Pháp luật hình sự Vương quốc Anh xác định trường hợp không truy cứu trách nhiệm hình sự do hết thời hiệu là một trong 4 trường hợp (dạng) miễn trách nhiệm hình sự. Về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với từng tội phạm thì pháp luật vương quốc Anh không quy định một nguyên tắc chung, mà chỉ xác định trong các trường hợp cụ thể và đối với một số tội phạm cụ thể. Đối với một số loại tội phạm, ví dụ tội chống nhà vua thì không áp dụng chế định này.
2.4. Pháp luật hình sự Cộng hòa Liên bang Đức:
Theo BLHS Liên bang Đức năm 1998 thì khi hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì cũng chấm dứt việc xử phạt cũng như việc ra lệnh các biện pháp hình sự đối với hành vi đã thực hiện. Tại điều 78 BLHS Liên bang Đức năm 1998 (sửa đổi năm 2009), quy định không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội giết người. Đặc biệt, trong quy định về vấn đề thời hiệu ngưng lại, để đảm bảo tính có lợi cho những người bị hại là người dưới 18 tuổi, BLHS Liên bang Đức quy định thời hiệu không được tính cho đến khi nạn nhân đủ 18 tuổi ở các tội phạm liên quan đến quyền được bảo vệ thân thể và quyền tình dục của người chưa thành niên.
Từ việc phân tích khoa học những vấn đề lý luận về Không truy cứu trách nhiệm hình sự do hết thời hiệu, chúng ta đã khái quát được một số vấn đề lý luận về chế định “Không truy cứu trách nhiệm hình sự do hết thời hiệu” như cơ sở lý luận, khái niệm, nội hàm, bản chất pháp lý và ý nghĩa của việc ghi nhận chế định này trong pháp luật hình sự. Bên cạnh đó, qua việc phân biệt chế định này với một số chế định liên quan càng cho chúng ta thấy rõ hơn được bản chất pháp lý của chế định không truy cứu trách nhiệm hình sự do hết thời hiệu.
Việc ghi nhận trường hợp không truy cứu trách nhiệm hình sự do tương đồng giữa chế định “Không truy cứu trách nhiệm hình sự do hết thời hiệu” và “Miễn trách nhiệm hình sự”. Ngoài ra, thông qua việc nghiên cứu các quy định trong pháp luật hình sự Việt Nam thời kì trước và pháp luật hình sự một số nước trên thế giới có thể thấy trường hợp không truy cứu trách nhiệm hình sự do hết thời hiệu cho người phạm tội được ghi nhận dưới nhiều hình thức khác nhau và có rất nhiều quy định tiến bộ mà chúng ta có thể nghiên cứu, học hỏi để tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự nước nhà.