Trong một số trường hợp, quan hệ lao động giữa người lao động và công ty kết thúc không êm đẹp, nhiều doanh nghiệp đã có hành vi gây khó khăn cho nhân viên bằng cách giữ sổ bảo hiểm xã hội của người lao động với nhiều lý do khác nhau. Vậy hành vi không trả sổ bảo hiểm xã hội cho người lao động với lý do không bàn giao công việc được quy định như thế nào?
Mục lục bài viết
1. Không trả sổ BHXH với lý do không bàn giao công việc?
Trước hết, căn cứ theo quy định tại Điều 48 của
– Trong khoảng thời gian 14 ngày làm việc được tính kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động, người lao động và người sử dụng lao động cần phải có nghĩa vụ thanh toán đầy đủ các khoản tiền có liên quan đến quyền lợi của các bên, ngoại trừ những trường hợp sau đây thì thời gian này có thể kéo dài tuy nhiên không được vượt quá 30 ngày. Cụ thể:
+ Người sử dụng lao động không phải là cá nhân đã chấm dứt hoạt động;
+ Người sử dụng lao động thực hiện thủ tục thay đổi cơ cấu công nghệ hoặc vì lý do kinh tế;
+ Thực hiện thủ tục chia tách, hợp nhất, sáp nhập, mua bán, cho thuê, chuyển đổi loại hình doanh nghiệp, chuyển nhượng quyền sở hữu, chuyển nhượng quyền sử dụng tài sản của doanh nghiệp và hợp tác xã;
+ Xuất phát từ lý do thiên tai, hỏa hoạn hoặc dịch bệnh nguy hiểm.
– Tiền lương, chế độ bảo hiểm xã hội, chế độ bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, trợ cấp thôi việc của người lao động và các quyền lợi khác của người lao động theo thỏa ước lao động tập thể và theo hợp đồng lao động sẽ được quyền ưu tiên thanh toán trong trường hợp doanh nghiệp hoặc hợp tác xã bị chấm dứt hoạt động, bị giải thể hoặc bị phá sản;
– Người sử dụng lao động cần phải tuân thủ các trách nhiệm sau: Người sử dụng lao động cần phải hoàn tất thủ tục xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội, thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp, trả lại các loại giấy tờ bản chính cho người lao động nếu người sử dụng lao động đã giữ của người lao động. Đồng thời, người sử dụng lao động cần phải cung cấp các bản sao tài liệu giấy tờ có liên quan đến quá trình làm việc của người lao động nếu người lao động có yêu cầu, chi phí gửi tay liệu sẽ do người sử dụng lao động chi trả.
Đồng thời, căn cứ theo quy định tại Điều 21 của Văn bản hợp nhất Luật bảo hiểm xã hội năm 2019 có quy định về trách nhiệm của người sử dụng lao động. Theo đó:
– Lập hồ sơ để cấp sổ bảo hiểm xã hội cho người lao động, để người lao động có thể được đóng và hưởng chế độ bảo hiểm xã hội;
– Đóng bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật, hàng tháng còn phải trích từ tiền lương của người lao động để đóng cùng một lúc vào quỹ bảo hiểm xã hội;
– Giới thiệu người lao động thuộc các đối tượng quy định cụ thể tại khoản 2 Điều 45 và Điều 55 của Văn bản hợp nhất Luật bảo hiểm xã hội năm 2019 đi giám định mức độ suy giảm khả năng lao động tại Hội đồng giám định y khoa;
– Phối hợp với cơ quan chức năng và cơ quan bảo hiểm xã hội để chi trả trợ cấp bảo hiểm xã hội cho người lao động;
– Phối hợp với các cơ quan bảo hiểm xã hội để trả sổ bảo hiểm xã hội cho người lao động, thực hiện thủ tục xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội khi người lao động chấm dứt hợp đồng lao động, chấm dứt hợp đồng làm việc hoặc thôi việc theo quy định của pháp luật về lao động;
– Cung cấp kịp thời các thông tin, tài liệu giấy tờ có liên quan đến quá trình đóng bảo hiểm xã hội phải hưởng bảo hiểm xã hội theo yêu cầu của cơ quan nhà nước và yêu cầu của cơ quan bảo hiểm xã hội;
– Định kỳ 06 tháng, cần phải thực hiện thủ tục niêm yết công khai các thông tin liên quan đến hoạt động đóng bảo hiểm xã hội của người lao động, cung cấp các thông tin về hoạt động đóng bảo hiểm xã hội của người lao động khi người lao động yêu cầu hoặc tổ chức công đoàn yêu cầu;
– Hằng năm, người sử dụng lao động cần phải niêm yết công khai thông tin đóng bảo hiểm xã hội của người lao động do cơ quan bảo hiểm xã hội cung cấp căn cứ theo quy định tại Điều 23 của Văn bản hợp nhất Luật bảo hiểm xã hội năm 2019.
Theo đó thì có thể nói, trong bất kỳ trường hợp nào thì người sử dụng lao động cũng đều phải có trách nhiệm trả các loại giấy tờ đã giữ của người lao động, trong đó có sổ bảo hiểm xã hội để đảm bảo quyền lợi của người lao động. Hành vi không trả sổ bảo hiểm xã hội cho người lao động với lý do không bàn giao công việc là một trong những hành vi vi phạm quy định của pháp luật, hành vi này sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính theo các điều luật tương ứng.
2. Không trả sổ BHXH với lý do không bàn giao công việc khi người lao động nghỉ việc sẽ bị xử phạt như thế nào?
Theo như phân tích nêu trên, không trả sổ bảo hiểm xã hội cho người lao động với lý do người lao động không bàn giao công việc là một trong những hành vi vi phạm quy định của pháp luật, vi phạm nghĩa vụ của người sử dụng lao động. Căn cứ theo quy định tại Điều 41 của Nghị định 12/2022/NĐ-CP, có quy định cụ thể về mức xử phạt đối với hành vi vi phạm quy định về bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thất nghiệp. Theo đó, phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 4.000.000 đồng khi vi phạm với mỗi người lao động, tuy nhiên tối đa không vượt quá 75.000.000 đồng khi thuộc một trong những trường hợp sau đây:
– Người sử dụng lao động không lập hồ sơ tham gia chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc cho người lao động trong khoảng thời gian 30 ngày được tính kể từ ngày các bên giao kết hợp đồng lao động phải giao kết hợp đồng làm việc hoặc tuyển dụng người lao động, không lập hồ sơ tham gia chế độ bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động trong khoảng thời gian 30 ngày được tính kể từ ngày hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc có hiệu lực pháp luật;
– Người sử dụng lao động không lập danh sách người lao động, hoặc có hành vi không lập hồ sơ, lập hồ sơ không đúng thời hạn căn cứ theo quy định tại Điều 102, Điều 103, Điều 110, Điều 112 của Văn bản hợp nhất Luật bảo hiểm xã hội năm 2019, Điều 59 và Điều 60 của Luật an toàn vệ sinh lao động năm 2015;
– Người sử dụng lao động có hành vi không giới thiệu người lao động thuộc đối tượng quy định tại Điều 47 của Luật an toàn vệ sinh lao động năm 2015 và Điều 55 Văn bản hợp nhất Luật bảo hiểm xã hội năm 2019 đi thực hiện thủ tục giám định suy giảm mức độ khả năng lao động tại hội đồng giám định y khoa;
– Người sử dụng lao động có hành vi không trả sổ bảo hiểm xã hội cho người lao động căn cứ theo quy định tại Điều 21 của Văn bản hợp nhất Luật bảo hiểm xã hội năm 2019 theo như phân tích nêu trên.
Tuy nhiên cần phải lưu ý, mức phạt tiền nêu trên được xác định là mức phạt tiền áp dụng đối với cá nhân vi phạm. Trong trường hợp tổ chức vi phạm, mức phạt tiền sẽ được xác định gấp hai lần mức phạt tiền đối với cá nhân trong cùng một hành vi vi phạm. Như vậy, nếu công ty có hành vi không trả sổ bảo hiểm xã hội cho người lao động với lý do người lao động không bàn giao công việc đầy đủ khi kết thúc hợp đồng, thì công ty sẽ bị xử phạt hành chính với mức phạt tiền từ 4.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng (mức phạt tiền áp dụng đối với tổ chức).
3. Người lao động cần làm gì khi công ty không trả sổ BHXH với lý do không bàn giao công việc?
Theo quy định của pháp luật, khi hợp đồng lao động chấm dứt, người sử dụng lao động cần phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình. Theo đó, người sử dụng lao động cần phải chốt sổ bảo hiểm ra trả lại sổ bảo hiểm xã hội cho người lao động. Đây được xem là nghĩa vụ và trách nhiệm bắt buộc của người sử dụng lao động được ghi nhận cụ thể tại Điều 48 của Bộ luật lao động năm 2019. Trong trường hợp người sử dụng lao động có hành vi cố tình giữ lại sổ bảo hiểm xã hội cho người lao động, không trả sổ bảo hiểm xã hội cho người lao động, người lao động cần phải thực hiện nhiều cách thức khác nhau để nhận lại sổ bảo hiểm xã hội và bảo vệ quyền lợi của mình. Cụ thể:
Thứ nhất, người lao động có thể tố cáo hành vi vi phạm của người sử dụng lao động tới chánh thanh tra Sở lao động thương binh và xã hội. Người lao động có thể gửi đơn hoặc tố cáo trực tiếp tới Sở lao động thương binh và xã hội nơi doanh nghiệp đó đặt trụ sở. Trong quá trình xử lý, nếu xác định có hành vi vi phạm, thanh tra lao động sẽ xử phạt công ty theo quy định của pháp luật, đồng thời bắt buộc công ty phải thực hiện thủ tục chốt sổ bảo hiểm, trả sổ bảo hiểm xã hội cho người lao động.
Thứ hai, người lao động có thể khiếu nại hành vi vi phạm pháp luật của công ty đến người có thẩm quyền. Người lao động sẽ khiếu nại lần một đến người sử dụng lao động. Trong trường hợp khiếu nại không được người sử dụng lao động giải quyết, hoặc không đồng ý với việc giải quyết của người lao động thì có thể khiếu nại lần thứ hai đến chánh thanh tra của Sở lao động thương binh và xã hội nơi công ty đó đặt trụ sở chính.
Thứ ba, người lao động có thể khởi kiện tại tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự. Căn cứ theo quy định tại Điều 188 của Bộ luật lao động năm 2019, đối với những tranh chấp về vấn đề bảo hiểm xã hội thì người lao động có thể khởi kiện trực tiếp tại tòa án mà không cần phải thông qua thủ tục hòa giải, theo đó người lao động nếu muốn khởi kiện doanh nghiệp thì có thể gửi đơn khởi kiện tới tòa án nhân dân cấp huyện nơi công ty đó đặt trụ sở chính đã yêu cầu giải quyết tranh chấp.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
–
– Bộ luật Lao động năm 2019;
– Nghị định 12/2022/NĐ-CP xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, BHXH, NLĐ Việt Nam ở nước ngoài theo hợp đồng.
THAM KHẢO THÊM: