Hôn nhân là một điều vô cùng quan trọng trong cuộc sống, và cũng từ hôn nhân, những chức năng cơ bản của gia đình sẽ được thực hiện và tiếp nối. Vì vậy hôn nhân là việc riêng của cá nhân tuy nhiên nó có ảnh hưởng lớn đến giá trị của gia đình và sự phát triển của xã hội. Vậy không đăng ký kết hôn có được công nhận là vợ chồng hay không?
Mục lục bài viết
1. Không đăng ký kết hôn có được công nhận vợ chồng không?
Trước hết, căn cứ theo quy định tại khoản 5 Điều 3 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 có đưa ra khái niệm về kết hôn, theo đó kết hôn là Việt Nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng hợp pháp với nhau theo quy định của pháp luật về hôn nhân gia đình (trong đó có quy định về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn). Tuy nhiên trong một số trường hợp, mặc dù không đăng ký kết hôn nhưng vẫn được coi là vợ chồng hợp pháp.
Căn cứ theo quy định tại Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP, cụ thể như sau:
(1) Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước giai đoạn 03/01/1987 (tức là trước giai đoạn ngày Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực pháp luật) mà chưa thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn, nếu một bên hoặc nếu cả hai bên có yêu cầu ly hôn thì cơ quan có thẩm quyền đó là Tòa án sẽ thụ lý vụ án, áp dụng quy định về ly hôn của Luật hôn nhân gia đình năm 2000 để tiến hành thủ tục giải quyết vụ án ly hôn đó theo quy định chung. Đồng thời cần phải chú ý, trong trường hợp sau khi quan hệ vợ chồng đã được xác lập trên thực tế, họ mới thực hiện việc đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền thì quan hệ vợ chồng của họ vẫn được công nhận được tính bắt đầu kể từ ngày xác lập (tức là kể từ ngày họ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng), chứ không phải là chỉ được công nhận quan hệ hôn nhân kể từ ngày đăng ký kết hôn.
(2) Đối với trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ sau giai đoạn 03/01/1987 trở đi đến trước giai đoạn 01/01/2001 (tức là ngày Luật hôn nhân gia đình năm 2000 có hiệu lực) mà không đáp ứng đầy đủ điều kiện đăng ký kết hôn, tuy nhiên chưa thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn và vẫn đang chung sống với nhau như vợ chồng, thì các bên có nghĩa vụ đăng ký kết hôn kể từ 1/1/2001 kéo dài cho đến 01/01/2003. Cần phải phân biệt như sau:
-
Kể từ 1/1/2001 kéo dài cho đến 01/01/2003, trong trường hợp các bên vẫn chưa thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn hoặc các bên đã đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền nhưng có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý vụ án, áp dụng quy định về ly hôn của Luật hôn nhân gia đình năm 2000 để giải quyết vụ án ly hôn theo thủ tục chung;
-
Kể từ sau giai đoạn 01/01/2003 mà các bên không thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn thì họ sẽ không được công nhận là vợ chồng; trong trường hợp một bên hoặc cả hai bên có yêu cầu ly hôn thì cơ quan có thẩm quyền đó là Tòa án sẽ thụ lý vụ án để giải quyết và áp dụng quy định tại Điều 11 của Luật Hôn nhân gia đình năm 2000, bằng bản án tuyên bố không công nhận các bên là vợ chồng hợp pháp; trong trường hợp họ có yêu cầu về con cái và yêu cầu phân chia tài sản thì cơ quan có thẩm quyền đó là Tòa án sẽ áp dụng quy định tại Điều 17 của Luật Hôn nhân gia đình năm 2000 để giải quyết theo thủ tục chung;
-
Kể từ sau 01/01/2003 các bên mới thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn và sau đó một bên hoặc cả hai bên có yêu cầu ly hôn, thì cơ quan có thẩm quyền đó là Tòa án sẽ thụ lý vụ án và áp dụng quy định về ly hôn của Luật hôn nhân gia đình năm 2000 để giải quyết vụ án ly hôn theo thủ tục chung, đồng thời cần phải chú ý, trong trường hợp này thì quan hệ vợ chồng của các bên chỉ được công nhận là đã xác lập bắt đầu kể từ ngày họ thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn.
Như vậy, đối với quan hệ vợ chồng sẽ chỉ được pháp luật công nhận khi các bên thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt. Hay nói cách khác, trong một số trường hợp không thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn vẫn có thể được công nhận là vợ chồng, bao gồm:
-
Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước giai đoạn 03/01/1987 tuy nhiên không có đăng ký kết hôn, thì quan hệ vợ chồng đó vẫn được pháp luật thừa nhận được tính bắt đầu kể từ ngày xác lập (tức là kể từ ngày các bên chung sống với nhau như vợ chồng);
-
Trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng bắt đầu kể từ 03/01/1987 kéo dài cho đến 01/01/2001, đáp ứng đầy đủ điều kiện đăng ký kết hôn tuy nhiên chưa thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền, thì các bên cần phải có nghĩa vụ thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn. Tuy nhiên, pháp luật sẽ thừa nhận quan hệ hôn nhân của họ được tính bắt đầu kể từ ngày các bên bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng;
-
Trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ sau giai đoạn 01/01/2003 phải đăng ký kết hôn, nếu không đăng ký kết hôn sẽ không được công nhận quan hệ vợ chồng. Khi thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn, quan hệ vợ chồng sẽ được xác lập được tính bắt đầu kể từ ngày đăng ký.
2. Không đăng ký kết hôn thì giải quyết quan hệ tài sản chung như thế nào?
Căn cứ theo quy định tại Điều 14 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014 có quy định về giải quyết hậu quả của việc nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng tuy nhiên không thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn. Theo đó:
-
Nam nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật về hôn nhân gia đình chung sống với nhau như vợ chồng tuy nhiên không thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn thì sẽ không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quyền, nghĩa vụ đối với con cái, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên sẽ được giải quyết căn cứ theo quy định tại Điều 15, Điều 16 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014;
-
Trong trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng tuy nhiên sau đó thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật về hôn nhân thì quan hệ hôn nhân sẽ được xác lập được tính bắt đầu kể từ thời điểm các bên đăng ký kết hôn.
Đối chiếu với quy định tại Điều 16 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014 có quy định về vấn đề giải quyết quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của các bên nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng tuy nhiên không thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn. Theo đó:
-
Quan hệ tài sản, nghĩa vụ, hợp đồng của nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng tuy nhiên không thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn sẽ được giải quyết theo sự thỏa thuận của các bên. Trong trường hợp các bên không có thoả thuận thì quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam nữ chung sống như vợ chồng sẽ được thực hiện theo quy định tại Bộ luật dân sự và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan;
-
Việc giải quyết quan hệ tài sản bắt buộc phải đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người phụ nữ và con cái, công việc nội trợ và các công việc khác có liên quan trực tiếp để duy trì đời sống chung cũng sẽ được coi là lao động có thu nhập.
Như vậy, theo điều luật nêu trên thì nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng tuy nhiên không thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn sẽ không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ chồng với nhau. Quan hệ tài sản của các bên chung sống như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn sẽ được giải quyết theo sự thỏa thuận của các bên, trong trường hợp các bên không có thoả thuận thì sẽ được giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.
3. Không đăng ký kết hôn thì phân chia tài sản chung theo nguyên tắc nào?
Căn cứ theo quy định tại Điều 219 của Bộ luật Dân sự năm 2015 có quy định về vấn đề chia tài sản thuộc sở hữu chung. Theo đó:
-
Trong trường hợp sở hữu chung có thể phân chia thì mỗi chủ sở hữu chung đều có quyền yêu cầu phân chia tài sản chung đó; trong trường hợp tình trạng sở hữu chung bắt buộc phải được duy trì trong một khoảng thời hạn nhất định theo sự thỏa thuận của các chủ sở hữu hoặc theo quy định của pháp luật có liên quan thì mỗi chủ sở hữu chung chỉ có quyền yêu cầu phân chia tài sản chung khi đó hết thời hạn đó; khi tài sản chung không thể phân chia bằng hiện vật thì chủ sở hữu chung có thể thỏa thuận, thương lượng hoặc có quyền bán phần sở hữu của mình cho người khác, ngoại trừ trường hợp các chủ sở hữu chung có thỏa thuận khác;
-
Trong trường hợp có người yêu cầu một trong số chủ sở hữu chung thực hiện nghĩa vụ thanh toán và chủ sở hữu chung đó không có tài sản riêng để thanh toán hoặc chủ sở hữu chung có tài sản riêng tuy nhiên tài sản đó không đủ để thanh toán, thì người yêu cầu thanh toán sẽ có quyền yêu cầu chia tài sản chung và tham gia vào quá trình phân chia tài sản chung của các bên, ngoại trừ trường hợp pháp luật liên quan có quy định khác;
-
Trong trường hợp không thể phân chia quyền sở hữu chung bằng hiện vật hoặc việc phân chia tài sản này bị các chủ sở hữu chung còn lại phản đối thì người có quyền có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ bán phần sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ thanh toán đó.
Như vậy, tài sản chung của các cá nhân chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn sẽ được giải quyết dựa trên những nguyên tắc cơ bản sau đây:
Thứ nhất, tài sản riêng của ai thì sẽ thuộc về người đó.
Thứ hai, tài sản chung của các bên sẽ được phân chia theo thỏa thuận. Trong trường hợp các bên không có thoả thuận thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Quá trình giải quyết quan hệ tài sản cần phải tuân thủ đầy đủ nguyên tắc theo quy định tại Điều 219 của Bộ luật dân sự năm 2015.
THAM KHẢO THÊM: