Không có khả năng chi trả thì có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không? Trách nhiệm thanh toán nợ khi mua bán trả góp.
Không có khả năng chi trả thì có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không? Trách nhiệm thanh toán nợ khi mua bán trả góp.
Tóm tắt câu hỏi:
Chào luật sư: tháng 3 năm 2016 tôi có mua trả góp 1 cái điện thoại, và tôi đã trả được 2 tháng, tháng thứ 3 tôi làm mất điện thoại và tôi không còn khả năng chi trả. Và từ đó đến tháng 11 chưa thấy ngân hàng gọi điện gì. Cho đến hôm nay, ngân hàng đã yêu cầu công ty thu hồi nợ đến nhà. Cho tôi hỏi trong trường hợp này tôi có bị truy tố trách nhiệm hình sự hay ko?
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
1. Cơ sở pháp lý
– Bộ luật Hình sự 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009
2. Nội dung tư vấn
Trường hợp của bạn được coi là loại hợp đồng mua bán tài sản trả chậm, trả dần. Hợp đồng của bạn được ký kết vào tháng 3/2016 theo đó được điều chỉnh bởi Bộ luật Dân sự 2005 tại Điều 461 như sau:
"1. Các bên có thể thoả thuận về việc bên mua trả chậm hoặc trả dần tiền mua trong một thời hạn sau khi nhận vật mua; bên bán được bảo lưu quyền sở hữu của mình đối với vật bán cho đến khi bên mua trả đủ tiền, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
2. Hợp đồng mua trả chậm hoặc trả dần phải được lập thành văn bản. Bên mua có quyền sử dụng vật mua trả chậm, trả dần và phải chịu rủi ro trong thời gian sử dụng, trừ trường hợp có thoả thuận khác."
Như vậy, khi bạn đã ký hợp đồng mua điện thoại thì từ thời điểm nhận chiếc điện thoại bạn có quyền sử dụng điện thoại, chịu rủi ro trong thời gian sử dụng chiếc điện thoại và có nghĩa vụ trả tiền mua theo thỏa thuận. Theo đó, việc bạn làm mất điện thoại trong thời gian mua trả chậm, trả dần không phải là điều kiện để bạn được miễn, giảm hay khấu trừ giá mua của chiếc điện thoại. Nghĩa vụ chi trả của bạn vẫn phải được đảm bảo thực hiện theo đúng thỏa thuận trong hợp đồng mua bán.
Liên quan đến trường hợp của bạn Bộ luật Hình sự 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 có Điều 140 về Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản như sau:
"1. Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới bốn triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;
b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản."
>>> Luật sư tư vấn về việc mua trả góp qua tổng đài: 1900.6568
Theo quy định nêu trên, bạn sẽ chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi có đầy đủ các yếu tố của hành vi quy định nêu trên tức sau khi ký hợp đồng mua bán và nhận chiếc điện thoại bạn có hành vi lừa dối hoặc bỏ trốn nhằm chiếm đoạt chiếc điện thoại. Như vậy, sau khi nhận được thông báo của ngân hàng về việc thanh toán tiền mua chiếc điện thoại, bạn tiếp tục thực hiện nghĩa vụ thanh toán của mình thì sẽ không có căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự của bạn.