Khi nào tạm hoãn hợp đồng lao động? Có được hưởng chế độ thai sản? Thời gian nghỉ thai sản trùng với thời gian tạm hoãn hợp đồng lao động.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng lao động, vì một số lý do nhất định mà người lao động và người sử dụng lao động không thể tiếp tục thực hiện được hợp đồng lao động nhưng chưa đến mức phải chấm dứt hợp đồng lao động. Trường hợp này các bên có thể thực hiện thủ tục là tạm hoãn hợp đồng lao động đã giao kết. Sau đây là những quy định của pháp luật về tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động cũng như quyền lợi, nghĩa vụ của các bên trong quá trình này, nhất là việc hưởng chế độ thai sản của người lao động.
Mục lục bài viết
1. Điều kiện để được tạm hoãn thực hiện hợp đồng
Theo quy định tại Điều 30 Bộ luật lao động năm 2019, những trường hợp sau đây người lao động và người sử dụng lao động có quyền thực hiện việc tạm hoãn hợp đồng:
“Điều 30. Tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động
1. Các trường hợp tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động bao gồm:
a) Người lao động thực hiện nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ tham gia Dân quân tự vệ;
b) Người lao động bị tạm giữ, tạm giam theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự;
c) Người lao động phải chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện bắt buộc hoặc cơ sở giáo dục bắt buộc;
d) Lao động nữ mang thai theo quy định tại Điều 138 của Bộ luật này;
đ) Người lao động được bổ nhiệm làm người quản lý doanh nghiệp của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ;
e) Người lao động được ủy quyền để thực hiện quyền, trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu nhà nước đối với phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp;
g) Người lao động được ủy quyền để thực hiện quyền, trách nhiệm của doanh nghiệp đối với phần vốn của doanh nghiệp đầu tư tại doanh nghiệp khác;
h) Trường hợp khác do hai bên thỏa thuận.
2. Trong thời gian tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động, người lao động không được hưởng lương và quyền, lợi ích đã giao kết trong hợp đồng lao động, trừ trường hợp hai bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định khác”
“Điều 138. Quyền đơn phương chấm dứt, tạm hoãn hợp đồng lao động của lao động nữ mang thai
1. Lao động nữ mang thai nếu có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền về việc tiếp tục làm việc sẽ ảnh hưởng xấu tới thai nhi thì có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động.
Trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động thì phải thông báo cho người sử dụng lao động kèm theo xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền về việc tiếp tục làm việc sẽ ảnh hưởng xấu tới thai nhi.
2. Trường hợp tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động, thời gian tạm hoãn do người lao động thỏa thuận với người sử dụng lao động nhưng tối thiểu phải bằng thời gian do cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền chỉ định tạm nghỉ. Trường hợp không có chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền về thời gian tạm nghỉ thì hai bên thỏa thuận về thời gian tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động.”
2. Chế độ thai sản của người lao động khi tạm hoãn thực hiện hợp đồng
2.1. Điều kiện hưởng chế độ thai sản:
Theo quy định tại Điều 31 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, người lao động sẽ được hưởng chế độ thai sản nếu đáp ứng được đầy đủ các điều kiện sau đây:
– Người lao động phải là một trong những đối tượng sau:
+ Lao động nữ mang thai;
+ Lao động nữ sinh con;
+ Lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ;
+ Người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi;
+ Lao động nữ đặt vòng tránh thai, người lao động thực hiện biện pháp triệt sản;
+ Lao động nam đang đóng bảo hiểm xã hội có vợ sinh con.
– Đảm bảo về thời gian tham gia bảo hiểm xã hội:
+ Đối với các lao động nữ sinh con; mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ; nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổithì phải có tổng thời gian tham gia bảo hiểm xã hội phải từ đủ 06 tháng trở lêntrong thời gian 12 tháng trước khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi.
+ Đối với các lao động nữ sinh con đã đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 12 tháng trở lên mà khi mang thai phải nghỉ việc để dưỡng thai theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền thì phải đảm bảo thời gian đóng bảo hiểm xã hội từđủ 03 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con.
+ Đồng thời khi người lao động đảm bảo đủ điều kiện về thời gian nêu trên mà chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc hoặc thôi việc trước thời điểm sinh con hoặc nhận nuôi con dưới 06 tháng tuổi thì vẫn được hưởng chế độ thai sản theo quy định của
+ Ngoài ra, theo quy định tại khoản 3 Điều 85 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 quy định những người lao động có số ngày không làm việc và không hưởng tiền lương từ 14 ngày làm việc trở lên trong một tháng thì không phải tham gia đóng bảo hiểm xã hội của tháng đó và khoảng thời gian này sẽ không được tính vào thời gian để hưởng bảo hiểm xã hội trừ trường hợp người lao động nghỉ việc để hưởng chế độ thai sản.
2.2. Có được hưởng chế độ thai sản trong thời gian tạm hoãn hợp đồng lao động:
Như vậy dựa trên điều kiện để được hưởng chế độ thai sản cũng như quy định về tạm hoãn thực hiện hợp đồng nêu trên, ta có thể khẳng định trong khoảng thời gian tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động người lao động có được hưởng chế độ thai sản hay không sẽ phụ thuộc vào yếu tố thời gian tham gia bảo hiểm xã hội của người lao động, cụ thể như sau:
– Nếu khoảng thời gian tạm hoãn hợp đồng lao động của người lao động mà kéo dài dẫn tới việc người lao động có thời gian tham gia bảo hiểm không đủ 06 tháng đóng bảo hiểm xã hội hoặc không đủ 03 tháng đóng bảo hiểm xã hội nếu phải nghỉ dưỡng thai trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con, nhận nuôi con nuôi thì người lao động sẽ không được hưởng chế độ thai sản.
– Nếu thời gian tạm hoãn hợp đồng lao động của người lao động ngắn, không kéo dài, vẫn đảm bảo thời gian đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 06 tháng hoặc từ đủ 03 tháng nếu phải nghỉ dưỡng thai trong khoảng thời gian 12 tháng trước khi sinh con thì người lao động vẫn sẽ được hưởng chế độ thai sản như bình thường.
2.3. Các quyền lợi khác của người lao động khi tạm hoãn hợp đồng lao động:
– Theo quy định tại khoản 2 Điều 30 Bộ luật lao động năm 2019 thì đang trong thời gian tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động, người lao động sẽ không được hưởng lương và không được hưởng các quyền, lợi ích được ghi nhận trong hợp đồng lao động đã giao kết, trừ trường hợp có sự thỏa thuận khác với người sử dụng lao động hoặc pháp luật có quy định khác.
– Sau khi hết thời hạn tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động thì trong vòng 15 ngày tiếp theo người lao động bắt buộc phải có mặt tại nơi làm việc và người sử dụng lao động phải có trách nhiệm phải nhận người lao động quay trở lại làm công việc đã được quy định trong hợp đồng lao động đã giao kết trong trường hợp hợp đồng lao động vẫn còn thời hạn nếu các bên không có thỏa thuận nào khác hoặc pháp luật không có quy định khác.
– Nếu sau khi hết thời hạn 15 ngày kể từ ngày hết thời hạn tạm hoãn thực hiện hợp đồng mà người lao động không quay trở lại làm việc thì người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 36 Bộ luật lao động năm 2019.
3. Các quy định khác của pháp luật về tạm hoãn hợp đồng lao động
– Xử phạt vi phạmquy định về tạm hoãn thực hiện hợp đồng:
Khi người lao động hết thời hạn tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động và đã có mặt tại nơi làm việc theo đúng quy định về tạm hoãn thực hiện hợp đồng nhưng người sử dụng lao động không nhận người lao động vào làm việc (trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác) thì người sử dụng lao động sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 10 Nghị định 28/2020/NĐ-CP ngày 01/3/2020 như sau:
“Điều 10. Vi phạm quy định về thực hiện hợp đồng lao động
1. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với người sử dụng lao động có hành vi khi tạm thời chuyển người lao động làm công việc khác so với hợp đồng lao động nhưng không báo cho người lao động trước 03 ngày làm việc hoặc không thông báo rõ thời hạn làm tạm thời hoặc bố trí công việc không phù hợp với sức khỏe, giới tính của người lao động.
2. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng đối với người sử dụng lao động có một trong các hành vi sau đây:
a) Bố trí người lao động làm việc ở địa điểm khác với địa điểm làm việc đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động, trừ trường hợp quy định tạiĐiều 31 của Bộ luật Lao động;
b) Không nhận lại người lao động trở lại làm việc sau khi hết thời hạn tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động, trừ trường hợp người sử dụng lao động và người lao động có thỏa thuận khác;
c) Chuyển người lao động làm công việc khác so với hợp đồng lao động không đúng lý do, thời hạn hoặc không có văn bản đồng ý của người lao động theo quy định của pháp luật.
3. Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 75.000.000 đồng đối với người sử dụng lao động có hành vi cưỡng bức lao động, ngược đãi người lao động mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
4. Biện pháp khắc phục hậu quả
Buộc trả lương cho người lao động trong những ngày không nhận người lao động trở lại làm việc sau khi hết thời hạn tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động đối với hành vi vi phạm quy định tại điểm b khoản 2 Điều này.”
– Việc tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp:
+ Đối với trường hợp người lao động tạm hoãn hợp đồng lao động, trong khoảng thời gian này người lao động sẽ không được trả lương. Do đó việc đóng bảo hiểm xã hội trong thời gian này được thực hiện theo quy định tại khoản 4 Điều 42 Quyết định 595/QĐ-BHXH năm 2017 cụ thể, nếu trong một tháng làm việc, người lao động có từ 14 ngày làm việc trở lên mà không làm việc và cũng không hưởng lương thì bảo hiểm xã hội của tháng đó sẽ không phải đóng.
+ Riêng trường hợp tạm hoãn hợp đồng lao động với lý do người lao động bị tạm giữ, tạm giam hoặc buộc phải tạm đình chỉ công tác để phụ cụ cho quá trình điều tra, xem xét kết luận xem có vi phạm hay không vi phạm pháp luật thì người lao động và đơn vị người sử dụng lao động được quyền tạm dừng đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp nhưng vẫn phải đóng bảo hiểm y tế hằng tháng bằng 4,5% tính trên 50% mức tiền lương tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội.
Sau khi hết thời gian tạm giữ, tạm giam hoặc hết thời gian bị tạm đình chỉ công tác nếu người lao động được cơ quan có thẩm quyền xác định là bị oan, bị sai, hành vi của người lao động không phải là hành vi phạm pháp luật thì sẽ phải thực hiện việc đóng bù bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp dựa trên mức tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc và sẽ bị truy thu đóng bảo hiểm y tế dựa trên số tiền lương được truy lĩnh, không tính lãi đối với số tiền truy đóng;
Nếu người lao động bị cơ quan có thẩm quyền xác định là có tội thì không sẽ thực hiện việc đóng bù bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và cũng không phải truy đóng bảo hiểm y tế cho khoảng thời gian người lao động bị tạm giam, tạm giữ.