Quy định cụ thể về việc xác định người không nơi nương tựa là người phụ thuộc giúp đảm bảo được rằng những người thực sự cần được hỗ trợ và giảm bớt về gánh nặng thuế như người phụ thuộc được xác định một cách công bằng và minh bạch. Vậy khi nào một người được coi là không có nơi nương tựa?
Mục lục bài viết
1. Khi nào một người được coi là không có nơi nương tựa?
Hiện tại, không có văn bản pháp luật nào giải thích hay quy định rõ thế nào là người không nơi nương tựa, tuy nhiên tại
– Trẻ em mồ côi là trẻ em dưới 16 tuổi, mồ côi cả cha lẫn mẹ hoặc bị bỏ rơi, bị mất nguồn nuôi dưỡng và không còn những người thân thích để nương tựa; trẻ em mồ côi cha hoặc mẹ, nhưng người còn lại là mẹ hoặc là cha mất tích theo quy định tại Điều 88 của Bộ Luật Dân sự hoặc là không đủ năng lực, khả năng để nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật;
– Người già cô đơn không nơi nương tựa là người từ đủ 60 tuổi trở lên sống độc thân. Người già còn vợ hoặc là chồng nhưng già yếu, không có con, cháu, người thân thích để nương tựa, không có các nguồn thu nhập. Trường hợp là phụ nữ cô đơn không nơi nương tựa, không có nguồn thu nhập, từ đủ 55 tuổi trở lên, hiện có đang được hưởng trợ cấp cứu trợ xã hội vẫn tiếp tục được hưởng;
– Người tàn tật nặng không có nguồn thu nhập và không có nơi nương tựa; người tàn tật nặng tuy có những người thân thích nhưng họ già yếu hoặc gia đình nghèo không đủ khả năng kinh tế để chăm sóc;
– Người tâm thần mãn tính là người mắc bệnh tâm thần thuộc các loại tâm thần phân liệt, rối loạn tâm thần mà đã được cơ quan y tế chuyên khoa tâm thần chữa trị nhiều lần nhưng chưa thuyên giảm và đã có kết luận bệnh mãn tính, sống độc thân không nơi nương tựa hoặc gia đình thuộc diện đói nghèo.
Như vậy, qua các quy định trên có thể khẳng định được rằng người không có nơi nương tựa là người sống cô đơn, không có sự hỗ trợ từ những thân nhân hoặc không còn thân nhân để chia sẻ và nuôi dưỡng ở trong cuộc sống hàng ngày. Điều này ám chỉ đến tình trạng của những người không có ai chăm sóc, hỗ trợ hoặc là cùng sống chia sẻ trách nhiệm cuộc sống. Trong một số trường hợp, họ sẽ có thể là những người sống độc thân, không kết hôn hoặc là không có con cái, và không có bất kỳ người thân nào khác để giúp đỡ.
2. Ý nghĩa của việc xác định một người được coi là không có nơi nương tựa:
Việc quy định cụ thể về xác định người không nơi nương tựa là người phụ thuộc có ý nghĩa lớn ở trong việc đảm bảo công bằng và minh bạch trong hệ thống thuế và chính sách xã hội. Sau đây là một số ý nghĩa quan trọng của việc quy định này:
– Công bằng: Quy định cụ thể về việc xác định người không nơi nương tựa là người phụ thuộc giúp đảm bảo được rằng những người thực sự cần được hỗ trợ và giảm bớt về gánh nặng thuế như người phụ thuộc được xác định một cách công bằng và minh bạch. Điều này sẽ tránh được việc lạm dụng hoặc lợi dụng các quy định để trốn tránh trách nhiệm thuế.
+ Trước hết, việc quy định cụ thể giúp loại bỏ hoặc là giảm thiểu sự lạm dụng hoặc lợi dụng những quy định về người không nơi nương tựa là người phụ thuộc. Bằng cách xác định được rõ ràng và chi tiết về điều kiện và tiêu chí để được coi là người phụ thuộc, những cơ quan thuế và quản lý xã hội có thể dễ dàng hơn trong việc kiểm tra và đánh giá tính hợp lệ của những trường hợp. Điều này giúp ngăn chặn việc sử dụng sai mục đích và bảo vệ nguồn lực công bằng.
+ Thứ hai, việc quy định cụ thể cũng tạo ra một hệ thống minh bạch, nơi mọi người có thể hiểu rõ về các quy trình và tiêu chuẩn để được coi là người phụ thuộc. Điều này giúp tạo ra được một môi trường thuế và chính sách xã hội công bằng và minh bạch, nơi mọi người đều biết rõ về các quyền lợi và trách nhiệm của mình. Các nguyên tắc và tiêu chuẩn rõ ràng giúp ngăn chặn được sự hiểu lầm và tranh cãi, tăng cường sự tin tưởng của người dân vào hệ thống và quy trình quản lý.
+ Hơn nữa, việc quy định cụ thể cũng mang lại sự nhất quán trong áp dụng những quy định và tiêu chuẩn trên toàn quốc. Điều này giúp đảm bảo được rằng mọi người đều được đối xử bình đẳng trước pháp luật, không phụ thuộc vào vị trí hoặc là ảnh hưởng của họ. Những quy định cụ thể cũng giúp ngăn chặn sự đa dạng trong cách áp dụng và hiểu biết về quyền lợi của mỗi cá nhân và gia đình.
– Hỗ trợ xã hội: Việc xác định người không nơi nương tựa là người phụ thuộc cũng là cách để chính phủ có thể được nhận biết và cung cấp hỗ trợ cho những đối tượng có hoàn cảnh khó khăn và cần được ưu tiên ở trong chính sách xã hội, như việc cung cấp trợ cấp, chăm sóc y tế hoặc giáo dục.
– Minh bạch và tuân thủ: Quy định cụ thể giúp tạo ra một hệ thống thuế và chính sách xã hội minh bạch và dễ dàng áp dụng. Những nguyên tắc và tiêu chuẩn xác định rõ ràng giúp người dân hiểu rõ về quyền lợi và trách nhiệm của họ, đồng thời cũng sẽ giúp cơ quan thuế và các cơ quan quản lý xã hội dễ dàng hơn trong việc kiểm soát và giám sát việc tuân thủ.
– Tính đa dạng: Việc quy định cụ thể về xác định người không nơi nương tựa là người phụ thuộc cũng sẽ có thể tính đến sự đa dạng trong các tình huống và hoàn cảnh cá nhân của người dân. Điều này giúp cho đáp ứng được nhu cầu và yêu cầu riêng biệt của mỗi cá nhân và gia đình.
Như vậy thì việc quy định cụ thể về xác định người không nơi nương tựa là người phụ thuộc mang lại khá nhiều lợi ích quan trọng trong việc tạo ra một hệ thống thuế và chính sách xã hội công bằng, minh bạch và hỗ trợ cho những người mà có hoàn cảnh khó khăn.
3. Những người không nơi nương tựa mà người nộp thuế đang phải trực tiếp nuôi dưỡng:
Căn cứ Điều 9 Văn bản hợp nhất 2/VBHN-BTC 2024 hợp nhất Thông tư hướng dẫn Luật Thuế TNCN, Luật sửa đổi, bổ sung về Luật Thuế TNCN quy định về Các khoản giảm trừ, Điều này quy định những cá nhân khác không nơi nương tựa mà người nộp thuế đang phải trực tiếp nuôi dưỡng và đáp ứng được đủ điều kiện cá nhân được tính là người phụ thuộc bao gồm:
– Anh ruột, chị ruột, em ruột của chính người nộp thuế.
– Ông nội, bà nội; ông ngoại, bà ngoại; cô ruột, dì ruột, cậu ruột, chú ruột, bác ruột của chính người nộp thuế.
– Cháu ruột của người nộp thuế bao gồm có: con của anh ruột, chị ruột, em ruột.
– Người phải trực tiếp nuôi dưỡng khác theo đúng quy định của pháp luật.
Mà điều kiện cá nhân được tính là người phụ thuộc phải đáp ứng các điều kiện sau:
– Đối với người trong độ tuổi lao động phải đáp ứng đồng thời những điều kiện sau:
+ Bị khuyết tật, không có về khả năng lao động.
+ Không có thu nhập hoặc có thu nhập bình quân tháng trong năm từ tất cả những nguồn thu nhập không vượt quá 1.000.000 đồng.
– Đối với người ngoài độ tuổi lao động phải không có thu nhập hoặc là đang có thu nhập bình quân tháng trong năm từ tất cả những nguồn thu nhập không vượt quá 1.000.000 đồng.
Những văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Văn bản hợp nhất 2/VBHN-BTC 2024 hợp nhất Thông tư hướng dẫn Luật Thuế TNCN, Luật sửa đổi, bổ sung Luật Thuế TNCN.
– Nghị định 31/2013/NĐ-CP hướng dẫn Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng.
– Nghị định số 07/2000/NĐ-CP ngày 09/03/2000 của Chính phủ về chính sách cứu trợ xã hội.
THAM KHẢO THÊM: