Khái niệm, đặc điểm nổi bật về trách nhiệm dân sự. Phân biệt trách nhiệm dân sự với các loại trách nhiệm khác.
Mục lục bài viết
1. Khái niệm về trách nhiệm dân sự:
Trách nhiệm dân sự là trách nhiệm pháp lý mang tính tài sản được áp dụng đối với người vi phạm pháp luật dân sự nhằm bù đắp về tổn thất vật chất, tinh thần cho người bị thiệt hại. Trách nhiệm dân sự dựa vào căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ mà các bên đã vi phạm, trách nhiệm dân sự được phân chia thành trách nhiệm ngoài hợp đồng và trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ từ những cam kết, thỏa thuận.
Nếu nghĩa vụ được tạo lập do các bên cam kết thỏa thuận mà người có nghĩa vụ vi phạm thì trách nhiệm đó được coi là trách nhiệm theo hợp đồng. Nếu nghĩa vụ được quy định bởi các quy định pháp luật nói chung mà người có nghĩa vụ vi phạm thì trách nhiệm đó được coi là trách nhiệm ngoài hợp đồng. Trách nhiệm dân sự bao gồm xin lỗi, cải chính công khai, buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự, buộc bồi thường thiệt hại, phạt vi phạm.
Theo Từ điển Tiếng Việt, trách nhiệm có thể được hiểu theo hai nghĩa: Một là “phần việc được giao cho hoặc coi như được giao cho, phải bảo đảm làm tròn, nếu kết quả không tốt thì phải gánh chịu phần hậu quả”, hai là “sự ràng buộc đối với lời nói, hành vi của mình, bảo đảm đúng đắn, nếu sai trái thì phải gánh chịu phần hậu quả”. Với trách nhiệm pháp lý, khi đó trách nhiệm đã được điều chỉnh và bảo vệ bởi các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành và “hậu quả” này sẽ là “hậu quả bất lợi” được áp dụng đối với những người phải chịu trách nhiệm pháp lý. Trách nhiệm pháp lý phát sinh khi có vi phạm pháp luật và đó là hậu quả của hành vi vi phạm đồng thời trách nhiệm pháp lý thể hiện được sự răn đe đối với những hành vi vi phạm và thể hiện sự răn đe của Nhà nước đối với những hành vi vi phạm.Trách nhiệm pháp lý là hậu quả bất lợi (sự trừng phạt) đối với chủ thể vi phạm pháp luật, thể hiện ở mối quan hệ đặc biệt giữa Nhà nước với các chủ thể vi phạm pháp luật, được các quy phạm pháp luật xác lập và điều chỉnh, trong đó chủ thể vi phạm pháp luật phải chịu những hậu quả bất lợi, những biện pháp cưỡng chế được quy định ở chế tài các quy phạm pháp luật.
Trách nhiệm dân sự là sự ràng buộc của Nhà nước đối với cá nhân, tổ chức trong quan hệ dân sự. Trách nhiệm dân sự là trách nhiệm pháp lý mang tính tài sản được áp dụng đối với người vi phạm pháp luật dân sự, trách nhiệm dân sự bù đắp về tổn thất vật chất, tinh thần cho người bị thiệt hại. Nếu hiểu theo nghĩa này, trách nhiệm dân sự là loại trách nhiệm pháp lý được đặt ra khi và chỉ khi có vi phạm dân sự.
Trách nhiệm dân sự theo nghĩa rộng là các biện pháp có tính cưỡng chế được áp dụng nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu của một quyền dân sự bị vi phạm.
2. Những đặc điểm của trách nhiệm dân sự:
Từ định nghĩa có thể hiểu đặc điểm đầu tiên và quan trọng của trách nhiệm pháp lý là “hậu quả bất lợi” (là sự trừng phạt) hay có thể hiểu đó là những chế tài mà pháp luật đặt ra nhằm thể hiện thái độ không chỉ là sự trừng phạt, răn đe mà còn giáo dục đối với những hành vi vi phạm pháp luật. Mục đích của trách nhiệm pháp lý không chỉ là trừng trị hành vi vi phạm mà bên cạnh đó còn là sự khôi phục lại tình trạng tương ứng với phần hậu quả mà người vi phạm đã gây ra do không thực hiện nghĩa vụ của mình. Vì vậy có thể rút ra kết luận: Trách nhiệm pháp lý có tính đền bù. Đặc điểm về hình thức của trách nhiệm pháp lý chỉ tồn tại khi được quy định trong các văn bản pháp luật do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước ban hành, tức chỉ Nhà nước có quyền xác định hành vi nào là vi phạm pháp luật và các chế tài tương ứng với mỗi vi phạm đó.
Trách nhiệm dân sự là trách nhiệm pháp lý mang tính tài sản được áp dụng đối với người vi phạm pháp luật dân sự nhằm bù đắp về tổn thất vật chất, tinh thần cho người bị thiệt hại. Nếu hiểu theo nghĩa này, trách nhiệm dân sự là loại trách nhiệm pháp lý được đặt ra khi và chỉ khi có sự vi phạm pháp luật dân sự.
Như trên đã phân tích, trách nhiệm dân sự được hiểu là một trách nhiệm pháp lý cho nên nó sẽ mang những đặc tính nói chung của trách nhiệm pháp lý. Tuy nhiên, vì đây là trách nhiệm dân sự nói riêng nên sẽ có những đặc điểm riêng biệt thuộc về trách nhiệm dân sự:
Căn cứ phát sinh trách nhiệm dân sự phải là hành vi vi phạm pháp luật dân sự: Đó là việc không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của người có nghĩa vụ dân sự; Trách nhiệm dân sự phát sinh khi cá nhân, tổ chức vi phạm sự thỏa thuận trong giao dịch dân sự, hay có lỗi trong việc thực hiện hành vi gây thiệt hại đối với người khác. Sự thỏa thuận của các bên là cơ sở hình thành nghĩa vụ dân sự. Vậy nên, việc vi phạm nghĩa vụ dân sự là căn cứ phát sinh trách nhiệm đối với các chủ thể. Ngoài ra, còn phải dựa vào việc vi phạm nghĩa vụ đấy có gây ra thiệt hại cụ thể và có mối quan hệ nhân quả giữa nghĩa vụ và thiệt hại hay không? Như vậy, trách nhiệm bồi thường chỉ phát sinh khi có đầy đủ các yếu tố như: lỗi, có thiệt hại vật chất xảy ra, hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi không thực hiện nghĩa vụ và thiệt hại vật chất.
* Lỗi của người gây ra thiệt hại
Về nguyên tắc, một người bị áp dụng một chế tài pháp lý (cưỡng chế của Nhà nước) thì họ phải có hành vi vi phạm pháp luật do lỗi cố ý hoặc vô ý.
Lỗi cố ý là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc tuy không mong muốn nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra.
Lỗi vô ý là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
Lỗi là một trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng và trách nhiệm dân sự nói chung. Nhưng lỗi trong trách nhiệm dân sự có những trường hợp là lỗi suy đoán. Bởi hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật nên người thực hiện hành vi đó bị suy đoán là có lỗi. Người bị thiệt hại trong nhiều trường hợp không thể chứng minh được, nếu buộc họ phải chứng minh sẽ bị bất lợi cho họ. Vì vậy, người bị thiệt hại không có nghĩa vụ chứng minh. Những người không có khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi của mình được coi là không có lỗi trong việc thực hiện các hành vi đó. Những người không có năng lực hành vi, bị mất năng lực hành vi, không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của họ thì họ không phải chịu trách nhiệm. Lỗi của pháp nhân trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại là lỗi của người thực hiện nhiệm vụ của pháp nhân. Vì vậy, pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra.
Lỗi trong trách nhiệm dân sự có những điểm khác với lỗi trong trách nhiệm hình sự. Trong trách nhiệm hình sự, hình thức lỗi và mức độ lỗi có ý nghĩa quan trọng trong việc định tội danh và quyết định hình phạt. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xác định người phạm tội có lỗi trong việc thực hiện hành vi phạm tội.
Trong trách nhiệm dân sự do gây thiệt hại, vấn đề hình thức lỗi, mức độ lỗi ảnh hưởng rất ít đến việc xác định trách nhiệm. Thậm chí, người gây ra thiệt hại phải bồi thường cả trong trường hợp không có lỗi. Tuy nhiên, có trường hợp người gây ra thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của họ hoặc thiệt hại do lỗi cố ý của người bị thiệt hại thì không phải bồi thường.
* Có thiệt hại xảy ra
Thiệt hại xảy ra là tiền đề của trách nhiệm bồi thường thiệt hại bởi mục đích của việc áp dụng trách nhiệm là khôi phục tình trạng tài sản cho người bị thiệt hại, do đó không có thiệt hại thì không đặt ra vấn đề bồi thường cho dù có đầy đủ các điều kiện khác. Thiệt hại là những tổn thất thực tế được tính thành tiền, do việc xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức. Trong trách nhiệm hình sự đối với một số tội có cấu thành hình thức thì không đòi hỏi có hậu quả vật chất. Ngay đối với một số tội có cấu thành vật chất thì trong một số trường hợp cá biệt, hậu quả chưa xảy ra nhưng do tính chất của hành vi nguy hiểm có khả năng gây ra hậu quả lớn cũng đã cấu thành tội phạm hoặc ngược lại, đối với một số tội như tội thiếu tinh thần trách nhiệm hoặc vi phạm các quy định về an toàn giao thông thì phải có thiệt hại nghiêm trọng mới cấu thành tội phạm. Nhưng trong trách nhiệm dân sự chỉ cần có thiệt hại dù không nghiêm trọng cũng phải bồi thường. Vì thiệt hại là điều kiện bắt buộc phải có trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, không có thiệt hại thì không phải bồi thường vì vậy trước tiên cần xác định thế nào là thiệt hại.
+ Thiệt hại về tài sản, biểu hiện cụ thể là mất tài sản, giảm sút tài sản, những chi phí để ngăn chặn, hạn chế, sửa chữa thay thế, những lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác công dụng của tài sản. Đây là những thiệt hại vật chất của người bị thiệt hại;
+Thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ làm phát sinh thiệt hại về vật chất bao gồm chi phí cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc, phục hồi chức năng bị mất, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ;
+ Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm uy tín bị xâm hại bao gồm chi phí hợp lí để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại;
+ Tổn thất về tinh thần.
Đời sống tinh thần là phạm trù rất rộng. Về nguyên tắc, không thể trị định giá được bằng tiền theo nguyên tắc ngang giá trị như trong trao đổi và không thể phục hồi được. Nhưng với mục đích nhằm ngăn chặn người có hành vi trái pháp luật, Bộ luật dân sự quy định người xâm hại phải: “bồi thường một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần” cho người bị thiệt hại, người thân thích gần gũi của người đó phải gánh chịu.
* Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật
Quyền được bảo vệ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, tài sản là một quyền tuyệt đối của mọi công dân, tổ chức. Mọi người đều phải tôn trọng những quyền đó của chủ thể khác, không được thực hiện bất cứ hành vi nào “xâm phạm” đến các quyền tuyệt đối đó.
Việc “xâm phạm” mà gây thiệt hại có thể là hành vi vi phạm pháp luật.
Hành vi gây thiệt hại thông thường thể hiện dưới dạng hành động. Chủ thể đã thực hiện hành vi mà đáng ra không được thực hiện các hành vi đó. Vấn đề hành vi trái pháp luật thể hiện dưới dạng không hành động có phải bồi thường thiệt hại không và sẽ áp dụng như thế nào là vấn đề phức tạp hiện đang còn có nhiều tranh luận, về phương diện lý luận, hành vi này vẫn coi là hành vi trái pháp luật và có khi phải chịu trách nhiệm hình sự (không cứu giúp người bị nạn…) nhưng khó có thể buộc người đó bồi thường thiệt hại. Lỗi trong trách nhiệm dân sự là điều kiện để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, tuy phân tích, đánh giá tất cả các sự kiện liên quan một cách thận trọng, khách quan và toàn diện. Từ đó mới có thể rút ra được kết luận chính xác về nguyên nhân, xác định đúng trách nhiệm của người gây ra thiệt hại.
Trách nhiệm dân sự là biện pháp cưỡng chế mang tính tài sản. Trong quan hệ nghĩa vụ dân sự mục đích mà các bên hướng đến là lợi ích. Mỗi bên sẽ có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận đối với nhau. Việc một bên không thực hiện nghĩa vụ sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của bên còn lại. Lợi ích mà một bên bị thiệt hại sẽ được giá trị bằng một lượng tài sản nhất định mà bên có lỗi phải có trách nhiệm bồi thường. Pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ của các bên trong mỗi giao dịch dân sự, cho nên, trách nhiệm trong dân sự chính là biện pháp cưỡng chế mang tính tài sản đối với các bên trong quan hệ dân sự.
Trách nhiệm dân sự là trách nhiệm của bên vi phạm trước bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm. Trách nhiệm dân sự có trách nhiệm dân sự trong hợp đồng và trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng.
Trách nhiệm dân sự trong hợp đồng: Hợp đồng là giao dịch dân sự, mà trong đó các bên tự thỏa thuận quyền và nghĩa vụ. Việc vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng có thể sẽ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường. Trong mỗi loại hợp đồng, các bên đều có thể tự do thỏa thuận những nội dung cụ thể. Những thỏa thuận này chính là sự ràng buộc đối với cả hai bên hợp đồng. Việc vi phạm hợp đồng sẽ phải chịu trách nhiệm đối với thiệt hại xảy ra. Trong hợp đồng, việc không thực hiện đúng nghĩa vụ có thể sẽ là căn cứ phát sinh trách nhiệm dân sự.Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng dân sự mà pháp luật đặt ra là biện pháp bảo đảm để các chủ thể thực hiện đúng nghĩa vụ của mình, hạn chế tối đa thiệt hại xảy ra.
Trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng: Trong trường hợp này, các chủ thể không có bất kỳ sự thỏa thuận nào, nhưng đã vi phạm các điều cấm của pháp luật dẫn đến một thiệt hại thực tế. Ngoài ra về nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trách nhiệm bồi thường chỉ phát sinh khi có đủ các điều kiện như:
Có thiệt hại xảy ra, hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật, lỗi thuộc về người gây ra thiệt hại;
Có mối liên hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật. Chủ thể chịu trách nhiệm dân sự là các chủ thể của quan hệ dân sự.
Trong dân sự, nghĩa vụ của chủ thể này là quyền của chủ thể khác. Việc một bên vi phạm nghĩa vụ sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của bên còn lại. Đặc biệt, trách nhiệm dân sự phát sinh từ nghĩa vụ dân sự, cho nên các chủ thể của nghĩa vụ dân sự cũng là chủ thể của trách nhiệm dân sự. Cụ thể, cá nhân, tổ chức, pháp nhân trong các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm. Chủ thể chịu trách nhiệm dân sự ngoài người vi phạm nghĩa vụ còn có thể là những chủ thể khác như: Pháp nhân, cơ quan, tổ chức, người đại diện theo pháp luật cho người chưa thành niên..
Hậu quả bất lợi mà người vi phạm nghĩa vụ phải gánh chịu có thể là việc phải thực hiện nghĩa vụ, thực hiện đúng và thực hiện đủ nghĩa vụ và nếu có thiệt hại thực tế từ vi phạm đó thì sẽ phát sinh thêm trách nhiệm bồi thường thiệt hại;
Trách nhiệm dân sự nhằm đền bù hoặc khôi phục lại quyền và lợi ích bị xâm phạm. Trách nhiệm dân sự phát sinh từ việc không thực hiện nghĩa vụ dân sự. Việc không thực hiện nghĩa vụ của mình sẽ ảnh hưởng đến lợi ích của người khác. Cho nên đương nhiên, người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm dân sự để đền bù hoặc khôi phục lại quyền và lợi ích đã xâm phạm.
3. So sánh trách nhiệm dân sự với các loại trách nhiệm khác:
Có 04 loại trách nhiệm pháp lý:
– Trách nhiệm pháp lý hình sự: Là trách nhiệm pháp lý áp dụng đối với các cá nhân, pháp nhân thương mại vi phạm pháp luật phải chịu những hậu quả pháp lý bất lợi về hành vi phạm tội của mình.
– Trách nhiệm pháp lý hành chính: Là loại trách nhiệm pháp lý đặt ra đối với các cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính hay nói cách khác trách nhiệm là trách nhiệm thi hành nghĩa vụ do pháp luật hành chính quy định và trách nhiệm phát sinh do vi phạm nghĩa vụ đó.
– Trách nhiệm pháp lý dân sự: Là trách nhiệm pháp lý mang tính tài sản được áp dụng đối với người vi phạm pháp luật dân sự nhằm bù đắp về tổn thất vật chất, tinh thần cho người bị hại.
– Trách nhiệm pháp lý kỷ luật: Là trách nhiệm pháp lý áp dụng đối với cán bộ, công chức, viên chức do vi phạm kỷ luật, vi phạm quy tắc hay nghĩa vụ trong hoạt động công vụ hoặc vi phạm pháp luật mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
* Điểm giống nhau giữa các loại trách nhiệm pháp lý: đều là hậu quả bất lợi do Nhà nước áp dụng đối với các cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật, theo đó cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật phải chịu những chế tài được quy định tại phần chế tài của quy phạm pháp luật.
* Điểm khác nhau:
– Trách nhiệm hình sự: là trách nhiệm pháp lý áp dụng đối với các cá nhân, pháp nhân thương mại vi phạm pháp luật phải chịu những hậu quả pháp lý bất lợi về hành vi phạm tội của mình.
Chủ thể áp dụng: Nhà nước
Chủ thể bị áp dụng: Cá nhân, pháp nhân thương mại có hành vi vi phạm pháp luật hình sự bị coi là tội phạm theo quy định của luật hình sự.
Mục đích Trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới,…
Các hình thức xử lý: Phạt chính; phạt bổ sung; các biện pháp khắc phục
Trình tự áp dụng Được áp dụng theo trình tự tư pháp.
– Trách nhiệm dân sự: là trách nhiệm pháp lý mang tính tài sản được áp dụng đối với người vi phạm pháp luật dân sự nhằm bù đắp về tổn thất vật chất, tinh thần cho người bị hại.
Chủ thể áp dụng: Nhà nước
Chủ thể bị áp dụng Áp dụng đối với chủ thể vi phạm pháp luật dân sự
Mục đích Buộc người có hành vi vi phạm pháp luật vào nghĩa vụ bồi thường cho người bị tổn hại do hành vi đó gây ra nhằm khắc phục những tổn thất đã gây ra.
Các hình thức xử lý Bồi thường thiệt hại; Các biện pháp khắc phục.
Trình tự áp dụng Được áp dụng theo trình tự tư pháp.
– Trách nhiệm hành chính: là loại trách nhiệm pháp lý đặt ra đối với các cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính hay nói cách khác TNHC là trách nhiệm thi hành nghĩa vụ do pháp luật hành chính quy định và trách nhiệm phát sinh do vi phạm nghĩa vụ đó.
Chủ thể áp dụng: Nhà nước.
Chủ thể bị áp dụng: chủ thể trong trách nhiệm hành chính là Nhà nước đối với tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật hành chính.
Mục đích: Xử lý vi phạm hành chính, loại trừ những vi phạm pháp luật, ổn định trật tự quản lý trên các lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước.
Các hình thức xử lý: Cảnh cáo; Phạt tiền.
– Trách nhiệm kỷ luật: là trách nhiệm pháp lý áp dụng đối với cán bộ, công chức, viên chức do vi phạm kỷ luật, vi phạm quy tắc hay nghĩa vụ trong hoạt động công vụ hoặc vi phạm pháp luật mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
Chủ thể áp dụng: thủ trưởng, cơ quan đơn vị, xí nghiệp.
Chủ thể bị áp dụng: cá nhân khi thực hiện hành vi vi phạm kỷ luật hoặc vi phạm pháp luật khác mà theo quy định phải chịu trách nhiệm kỷ luật.
Mục đích: đảm bảo trật tự nội bộ của cơ quan, tổ chức.
Các hình thức xử lý: khiển trách; cảnh cáo; hạ bậc lương; hạ ngạch; cách chức; buộc thôi việc.
Trình tự áp dụng: là trình tự hành chính