A và B cùng hợp tác làm ăn, A giao cho B số tiền 90 triệu. Nhưng B sử dụng số tiền đó vào mục đích khác dẫn đến hậu quả mất toàn bộ số tiền. Hỏi A có thể kiện B không?
Tóm tắt câu hỏi:
Kính gửi công ty Luật Dương Gia, Tôi có 2 vấn đề mong được công ty tư vấn. Tôi xin được tóm tắt vấn đề như sau:
1. A và B cùng hợp tác kinh doanh, nhưng sau đó A phát hiện B đã dùng số tiền (gần 90 triệu) của A để đầu tư việc khác không như ban đầu đã định và thất bại. A có thể kiện B được không? Nếu được thì sẽ kiện với tội danh gì? Do A và B chỉ liên lạc với nhau qua facebook và SMS. vậy facebook và SMS có thể dùng làm bằng chứng được không.
2. A đứng tên vay hộ B 1 khoản tiền với mục đích bù vào khoản tiền mà B đã dùng của công ty B hứa 4 tháng sau sẽ trả hết nhưng sau đó B đã không trả hết mà chỉ trả số tiền định kỳ hàng tháng mà ngân hàng quy định nhưng không đều đặn. A có thể kiện B được không? Nếu B đã sử dụng số tiền vay không đúng với mục đích B đã trình bày lúc mượn mà A không có bằng chứng thì có thể kiện được không và với tội danh gì.?
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
1. Đối với trường hợp đầu tiên, A hoàn toàn có thể kiện B về hành vi: Lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Căn cứ theo Điều 140 Bộ Luật Hình sự:
“Điều 140. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
1. Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới bốn triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;
b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;
đ) Tái phạm nguy hiểm;
e) Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm và bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc một trong hai hình phạt này”.
Mặc dù A và B chỉ liên lạc với nhau qua facebook, sms điện thoại và không có biên bản thỏa thuận về việc góp vốn. Tuy nhiên, những tin nhắn qua facebook và sms điện thoại đều có thể xem xét là chứng cứ pháp lý chứng minh việc A và B cùng hợp tác kinh doanh. Ngoài những yếu tố trên, A cũng nên thu thập những chứng cứ như: Chứng từ giao dịch ngân hàng hoặc biên bản
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
2. Để xem xét việc A có thể khởi kiện B hay không thì cần xem xét lại thỏa thuận đứng tên vay hộ số tiền giữa A và B. Pháp luật không ghi nhận việc một người đứng tên vay tiền hộ người khác, nên việc A đứng ra vay tiền từ phía ngân hàng thì A sẽ phải thực hiện các nghĩa vụ đã kí kết với ngân hàng. Tuy nhiên, cũng cần xem xét vấn đề A và B có giao kết một hợp đồng vay tiền sau khi A đã thực hiện vay tiền ở ngân hàng. Nếu A và B có giao kết một hợp đồng vay tiền và A có đầy đủ những căn cứ chứng minh B đã trả nợ không đúng hạn và sử dụng số tiền vay ban đầu không đúng với mục đích đã trình bày với A dẫn đến tình trạng không thể trả nợ thì A có thể kiện B về hành vi: Lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản căn cứ Điều 140 Bộ Luật Hình sự.
Hy vọng rằng sự tư vấn của chúng tôi sẽ giúp bạn lựa chọn phương án thích hợp nhất để giải quyết những vướng mắc của bạn. Nếu còn bất cứ thắc mắc gì liên quan đến sự việc bạn có thể liên hệ Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 24/7 của Luật sư: 1900.6568 để được giải đáp.