Hoạt động hợp tác quốc tế trong quá trình tố tụng cạnh tranh? Một số quy định về dẫn độ?
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay thì việc hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực, hoạt động là vô cùng cần thiết không chỉ Việt Nam mà còn với tất cả các quốc gia trên thế giới. Trong quá trình tố tụng cạnh tranh cũng vậy, vấn đề hợp tác quốc tế trong quá trình tố tụng cạnh tranh cũng có ý nghĩa quan trọng và phải phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập và phù hợp với pháp luật Việt Nam. Vậy hoạt động hợp tác quốc tế trong quá trình tố tụng cạnh tranh được quy định như thế nào? Bài viết dưới đây của Luật Dương Gia sẽ cung cấp cho bạn đọc nội dung liên quan đến: ” Hoạt động hợp tác quốc tế trong quá trình tố tụng cạnh tranh”
Luật sư tư vấn luật qua điện thoại trực tuyến miễn phí: 1900.6568
– Cơ sở pháp lý: Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
Mục lục bài viết
1. Hoạt động hợp tác quốc tế trong quá trình tố tụng cạnh tranh.
– Trong trường hợp những điều ước quốc tế mà Việt Nam chưa gia nhập hoặc chưa ký kết có liên quan đến việc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này, thì sẽ được thực hiện theo nguyên tắc “có đi có lại” nhưng bảo đảm không trái với pháp luật Việt Nam.
– Trong hoạt động tố tụng hình sự có trường hợp người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam, đang bị cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam điều tra, truy tố hoặc xét xử nhưng đã trốn khỏi Việt Nam đến nước mà người đó mang quốc tịch hoặc nước khác hoặc ngược lại, có trường hợp người Việt Nam phạm tội trên lãnh thổ nước ngoài, đang bị cơ quan có thẩm quyền nước ngoài điều tra, truy tố, xét xử nhưng đã trốn khỏi nước ngoài về Việt Nam. Trong những trường hợp đó, Việt Nam hoặc nước khác thường có yêu cầu dẫn độ. Tuy nhiên, nếu nước khác hoặc Việt Nam từ chối dẫn độ, thì cần phải có việc chuyển giao, tiếp nhập tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án giữa cơ quan có thẩm quyền Việt Nam với cơ quan có thẩm quyền nước ngoài để xem xét quyết định tiếp tục truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội.
– Theo Điều 497 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, việc tiếp nhận, chuyển giao tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án được thực hiện theo quy định của điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, quy định của Bộ luật tổ tụng hình sự, pháp luật về tương trợ tư pháp và quy định khác của pháp luật Việt Nam có liên quan.
– Theo hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền, việc tiếp nhận, chuyển giao tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án để yêu cầu nước ngoài tiếp tục truy cứu trách nhiệm hình sự phải có đủ các điều kiện: người bị yêu cầu tiếp tục truy cứu trách nhiệm hình sự là người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam, đang bị cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền của Việt Nam điều tra, truy tố hoặc xét xử nhưng đã trốn khỏi Việt Nam đến nước mà người đó mang quốc tịch hoặc nước khác; cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam đã yêu cầu nước ngoài dẫn độ về Việt Nam, nhưng cơ quan có thẩm quyền của nước đó từ chối việc dẫn độ.
– Việc chuyển giao tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án để yêu cầu nước ngoài tiếp tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội phải bảo đảm các nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, đảm bảo an ninh chính trị của Việt Nam; tuân thủ Hiến pháp, pháp luật Việt Nam, các điều ước quốc tể mà Việt Nam là thành viên; phù hợp tập quán quốc tế; đảm bảo bí mật nhà nước chế độ bảo mật thông tin, tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án; không làm ảnh hưởng đến việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội khác trong cùng vụ án hoặc việc giải quyết vụ án khác tại Việt Nam; tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án chuyển giao là những tài liệu, đồ vật không thể thiếu để phục vụ cho cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài tiếp tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội
– Khi yêu cầu nước ngoài tiếp tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, cơ quan có thẩm quyền có yêu cầu (cơ quan yêu cầu) phải lập hồ sơ.
– Hồ sơ gồm có công văn của cơ quan yêu cầu đề nghị Viện kiểm sát nhân dân tối cao xem xét việc chuyển hồ sơ cho nước ngoài; văn bản yêu cầu nước ngoài truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội; sao y bản chính hồ sơ gốc của vụ án; các tài liệu chứng minh đối tượng đang có mặt tại nước được yêu cầu; văn bản từ chối dẫn độ của cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài; các tài liệu, đồ vật có liên quan đến vụ án.
– Hồ sơ phải được đánh số bút lục và có danh mục tài liệu, vật chứng kèm theo (nếu có) và được lập thành 03 bộ. Cơ quan yêu cầu có trách nhiệm dịch hồ sơ ra ngôn ngữ phù hợp. Trường hợp cơ quan yêu cầu không xác định được ngôn ngữ của nước được yêu cầu hoặc ngôn ngữ khác mà nước được yêu cầu chấp nhận thì gửi văn bản đến Bộ Ngoại giao đề nghị xác định.
– Cơ quan yêu cầu có trách nhiệm chuyển hồ sơ trực tiếp hoặc qua đường bưu điện đến Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Trường hợp chuyển trực tiếp thì việc giao, nhận phải được lập thành biên bản. Trường hợp chuyển qua đường bưu điện, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có trách nhiệm kiểm tra tài liệu, vật chứng có trong hồ sơ trước khi thụ lý.
– Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có trách nhiệm vào sổ thụ lý hồ sơ; kiểm tra tính đầy đủ và tính hợp lệ của hồ sơ; xem xét, quyết định loại tài liệu, đồ vật chuyển giao cho nước ngoài liên hệ với cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài về việc chuyển giao tài liệu, đồ vật để yêu cầu tiếp tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội theo điều ước quốc tế mà Việt Nam và nước được yêu cầu là thành viên.
– Việt Nam và nước được yêu cầu chưa có điều ước quốc tế về lĩnh vực này thì đề nghị Bộ Ngoại giao xem xét, quyết định việc đề nghị nước ngoài tiếp tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trên cơ sở áp dụng nguyên tắc có đi có lại; thông báo cho cơ quan yêu cầu biết về việc chuyển giao tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án cho nước ngoài.
– Trường hợp giữa Việt Nam và nước được yêu cầu đều là thành viên của Điều ước quốc tế tương trợ tư pháp về hình sự, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trực tiếp liên hệ và chuyển giao tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án cho nước ngoài theo quy định của điều ước quốc tế.
– Trường hợp Việt Nam và nước được yêu cầu không cùng là thành viên của Điều ước quốc tế tương trợ tư pháp về hình sự, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có công văn kèm theo hồ sơ gửi đến Bộ Ngoại giao để thực hiện trách nhiệm liên hệ chuyển giao cho nước được yêu cầu.
– Tùy theo từng trường hợp, việc chuyển giao tài liệu, đồ vật có liên quan đến vụ án cho nước ngoài có thể thực hiện trực tiếp hoặc qua đường bưu điện.
– Trường hợp chuyển giao trực tiếp, việc chuyển giao phải được lập thành biên bản, thể hiện đầy đủ các tài liệu có trong hồ sơ, danh mục và tình trạng đồ vật được chuyển giao, có chữ ký của bên giao (đại diện các cơ quan có liên quan của Việt Nam tại địa điểm bàn giao) và bên nhận (đại diện của cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài tại địa điểm bàn giao).
– Trường hợp chuyển giao qua đường bưu điện, cơ quan thực hiện việc chuyển giao phải niêm phong tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án trước khi gửi và phải lưu biên nhận của bưu điện.
– Chi phí phát sinh trong quá trình thực hiện việc chuyển giao hồ sơ, vật chứng cho nước ngoài do cơ quan thực hiện việc chuyển giao (Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc Bộ Ngoại giao) chi trả từ ngân sách nhà nước.
2. Một số quy định về dẫn độ
Dẫn độ là việc một nước chuyển giao cho nước khác người có hành vi phạm tội hoặc người bị kết án hình sự đang có mặt trên lãnh thổ nước mình để nước được chuyển giao truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành án đối với người đó.
2.1. Trình tự, thủ tục xem xét, xử lý yêu cầu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với công dân Việt Nam bị từ chối dẫn độ:
– Theo Điều 35 Luật tương trợ tư pháp năm 2007, cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền của Việt Nam từ chối dẫn độ cho nước ngoài nếu yêu cầu dẫn độ thuộc trường hợp người bị yêu cầu dẫn độ là công dân Việt Nam.
– Theo Điều 498 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài, cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam có trách nhiệm xem xét để truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc cho thi hành bản án, quyết định hình sự của Tòa án nước ngoài đối với công dân Việt Nam bị từ chối dẫn độ.
– Theo Điều 499 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày ra quyết định từ chối dẫn độ công dân Việt Nam theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài, Tòa án đã ra quyết định từ chối dẫn độ chuyển hồ sơ và các tài liệu kèm theo của nước ngoài đến Viện kiểm sát nhân dân tối cao để xem xét việc truy cứu trách nhiệm hình sự, Viện kiểm sát nhân dân tối cao xem xét, xử lý yêu cầu của nước ngoài về truy cứu trách nhiệm hình sự công dân Việt Nam bị từ chối dẫn độ theo quy định của luật. Việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đối với người bị yêu cầu truy cứu trách nhiệm hình sự được tiến hành theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
– Cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam có thể yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cung cấp, bổ sung chứng cứ, tài liệu, đồ vật để bảo đảm việc điều tra, truy tố, xét xử có căn cứ, đúng pháp luật.
2.2. Điều kiện cho thi hành và trình tự, thủ tục xem xét yêu cầu thi hành bản án, quyết định hình sự của Tòa án nước ngoài đối với công dân Việt Nam bị từ chối dẫn độ.
* Điều kiện cho thi hành bản án, quyết định hình sự của Tòa án nước ngoài đối với công dân Việt Nam bị từ chối dẫn độ:
– Trường hợp công dân Việt Nam phạm tội đã bị Tòa án nước ngoài xét xử, kết tội bằng bản án, quyết định hình sự của Tòa án nước ngoài mà bỏ trốn về Việt nam, thì cơ quan tiến hành tổ tụng có thẩm quyền của Việt Nam phải từ chối dẫn độ nếu có yêu cầu dẫn độ của cơ quan có thẩm quyền nước ngoài.
– Theo Điều 500 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, bản án, quyết định hình sự của Tòa án nước ngoài đối với công dân Việt Nam bị từ chối dẫn độ có thể được thi hành tại Việt Nam khi có đủ các điều kiện:
– Có văn bản yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài về việc thi hành bản án, quyết định hình sự của Tòa án nước ngoài đối với công dân Việt Nam bị từ chối dẫn độ
– Hành vi phạm tội mà công dân Việt Nam bị kết án ở nước ngoài cũng cấu thành tội phạm theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam;
– Bản án, quyết định hình sự của Tòa án nước ngoài đối với người đó.