Theo pháp luật Việt Nam, hình phạt là một chế tài nghiêm khắc nhất đối với người phạm tội. Hình phạt có hai loại là hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Theo đó, người phạm tội có thể bị tuyên cả hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Cùng bài viết tìm hiểu về Hình phạt bổ sung theo Bộ luật hình sự?
Mục lục bài viết
1. Hình phạt bổ sung là gì?
Trước khi hiểu được hình phạt bổ sung là gì tác giả sẽ giới thiệu cho bạn đọc hiểu về khái niệm hình phạt là gì?
Theo như quy định của pháp luật hiện nay thì hình phạt được hiểu là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của nhà nước được quy định cụ thể đối với từng loại tội danh được quy định tại Bộ luật hình sự. Hình phạt được áp dụng tại nước ta hiện nay khá đa dạng và được chia thành nhiều loại khác nhau như xử phạt hành chính, buộc bồi thường thiệt hại, phạt chính, phạt bổ sung….Theo quy định tại Điều 30 của Luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 như sau:
“Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do
Mục đích của việc áp dụng các hình phạt chính là nhằm trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.
Và hình phạt bổ sung chính là một loại hình phạt cơ bản được quy định tại Bộ luật hình sự. Hình phạt bổ sung là hình phạt được áp dụng kèm theo hình phạt chính đối với những tội phạm nhất định nhằm tăng cường, củng cố tác dụng của hình phạt chính. Thông thường những tội danh có tính chất nghiêm trọng, gây ra những hậu quả lớn cho xã hội thì Hội đồng xét xử sẽ có thêm hình phạt bổ sung cho người phạm tội. Và nếu người bị kết án không bị áp dụng hình phạt chính thì tòa án không được áp dụng hình phạt chính bổ sung đối với người phạm tội.
Mỗi tội phạm, người phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính, nhưng lại có thể bị áp dụng nhiều loại hình phạt bổ sung. Trong trường hợp một người bị kết án về nhiều tội, thì hình phạt bổ sung của tội nào chỉ áp dụng đối với tội ấy, không áp dụng hình phạt bổ sung chung cho tất cả các tội. Thực tiễn xét xử do không nắm chắc nguyên tắc này, nên có một số Tòa án đã tuyên hình phạt bổ sung chung cho tất cả các tội mà người bị kết án đã phạm.
2. Các loại hình phạt bổ sung:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 28 Bộ luật hình sự, thì hình phạt bổ sung gồm: cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; cấm cư trú; quản chế; tước một số quyền công dân; tịch thu tài sản; phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính; trục xuất, khi không áp dụng là hình phạt chính.
2.1. Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định:
Căn cứ theo quy định tại Điều 41 của Bộ luật hình sự quy định biện pháp cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định được áp dụng khi xét thấy nếu để người bị kết án đảm nhiệm chức vụ, hành nghề hoặc làm công việc đó thì có thể gây nguy hại cho xã hội.
Thời hạn cấm là từ 01 năm đến 05 năm, kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù hoặc từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật nếu hình phạt chính là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc trong trường hợp người bị kết án được hưởng án treo.
Ví dụ: A là Phó chủ tịch ủy ban nhân dân phường B, tuy nhiên đã có hành vi lợi dụng chức quyền xúc phạm nghiêm trọng đến nhân phẩm, danh dự của người dân nhiều lần và đã bị kết án phạt tù 4 tháng, đồng thời cấm đảm nhiệm chức vụ trong 01 năm.
2.2. Cấm cư trú:
Cấm cư trú là biện pháp buộc người bị kết án phạt tù không được tạm trú hoặc thường trú ở một số địa phương nhất định. Chỉ được ở tại địa phương nơi đang sinh sống, không được di chuyển đến địa phương khác trong một thời gian dài.
Thời hạn cấm cư trú là từ 01 năm đến 05 năm, kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù.
2.3. Quản chế:
Quản chế là buộc người bị kết án phạt tù phải cư trú, làm ăn sinh sống và cải tạo ở một địa phương nhất định dưới sự kiểm soát, giáo dục của chính quyền và nhân dân địa phương. Trong thời gian quản chế, người bị kết án không được tự ý ra khỏi nơi cư trú, bị tước một số quyền công dân theo quy định tại Điều 44 của Bộ luật hình sự như quyền ứng cử đại biểu cơ quan quyền lực nhà nước, quyền làm việc trong các cơ quan nhà nước và quyền phục vụ trong lực lượng vũ trang nhân dân và bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định đối với công việc liên quan đến hành vi phạm tội.
Quản chế được áp dụng đối với người phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia, người tái phạm nguy hiểm hoặc trong những trường hợp khác do Bộ luật hình sự quy định.
Thời hạn quản chế là từ 01 năm đến 05 năm, kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù.
2.4. Tước một số quyền công dân:
– Công dân Việt Nam bị kết án phạt tù về tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội phạm khác trong những trường hợp do Bộ luật hình sự quy định, thì bị tước một hoặc một số quyền công dân sau đây:
+ Quyền ứng cử đại biểu cơ quan quyền lực Nhà nước như quyền bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân các cấp hoặc đại biểu Quốc hội.
+ Quyền làm việc trong các cơ quan nhà nước và quyền phục vụ trong lực lượng vũ trang nhân dân như công an nhân dân, sĩ quan quân đội, hay đảm nhiệm các chức vụ, công việc trong bộ máy nhà nước.
- Thời hạn tước một số quyền công dân là từ 01 năm đến 05 năm, kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù hoặc kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật trong trường hợp người bị kết án được hưởng án treo.
2.5. Tịch thu tài sản:
Tịch thu tài sản là tước một phần hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của người bị kết án để nộp vào ngân sách nhà nước.
Tịch thu tài sản chỉ được áp dụng đối với người bị kết án về tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về ma túy, tham nhũng hoặc tội phạm khác do Bộ luật hình sự như tội phản bội Tổ quốc, tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, tội gián điệp, tội mua bán trái phép chất ma túy…
Khi tịch thu toàn bộ tài sản vẫn để cho người bị kết án và gia đình họ có điều kiện sinh sống. Chỉ tịch thu tài sản có liên quan đến hành vi phạm tội nhưng trường hợp người này phải nuôi cha mẹ già thì có thể tịch thu một phần tài sản đảm bảo thi hành án, tạo điều kiện cho gia đình của người phạm tội có chi phí sinh hoạt, tiêu dùng. Đây chính là tính nhân đạo, nhân văn của pháp luật nước ta.
2.6. Phạt tiền:
Khi không áp dụng là hình phạt chính là hình phạt tiền thì lúc này Tòa án có thể xem xét mức độ nguy hiểm cho xã hội mà quyết định áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền.
Tức là người phạm tội không bị cơ quan nhà nước áp dụng hình phạt
Thứ bảy, trục xuất, khi không áp dụng là hình phạt chính. Hình phạt này chỉ áp dụng đối với trường hợp người phạm tội là người nước ngoài bị Tòa án nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam kết án, buộc họ rời khỏi lãnh thổ nước ta. Và trường hợp Tòa án không áp dụng hình phạt chính là hình phạt trục xuất khỏi lãnh thổ nước ta thì lúc này hình phạt trục xuất được xem là hình phạt bổ sung.
Thực tiễn cho thấy, một hình phạt bổ sung có nhiều loại hình phạt có tính chất nghiêm khắc khác nhau, có công dụng khác nhau, có chế độ chấp hành khác nhau thì việc xử lý hình sự càng chính xác, các tình tiết của hành vi phạm tội, các yếu tố thuộc về nhân thân người phạm tội càng được xem xét khi quyết định hình phạt và do đó hiệu quả của hình phạt đạt được càng cao. Đa dạng hóa hình phạt trong hệ thống hình phạt là điều kiện đảm bảo tính thống nhất trong thực tiễn xét xử của các tòa án các cấp, bảo đảm cho việc xét xử bình đẳng, công bằng. Với nhiều loại hình phạt khác nhau được quy định thì khả năng cá thể hóa và bảo đảm sự công bằng càng cao.
Như vậy, việc quy định hình phạt bổ sung trong luật hình sự là rất quan trọng. Nó mở ra những khả năng pháp lý giúp cá thể hóa hình phạt, đảm bảo cho sự tác có sự lựa chọn với người bị kết án tùy theo tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và đặc điểm nhân thân của họ. Nói cách khác, hình phạt bổ sung tạo điều kiện cho tòa án cá thể hóa hình phạt, lựa chọn biện pháp phù hợp để xử lý triệt để, công bằng với người bị kết án nhằm đạt được mục đích của hình phạt.
Các văn bản pháp luật có liên quan đến bài viết: