Hạn chế trong phát huy vai trò của Viện kiểm sát trong hoạt động hỏi cung bị can. Nguyên nhân của những hạn chế trong phát huy vai trò của Viện kiểm sát trong hoạt động hỏi cung bị can.
Mục lục bài viết
1. Hạn chế trong phát huy vai trò của Viện kiểm sát trong hoạt động hỏi cung bị can:
Những năm gần đây, ngày càng nhiều vụ án oan bị kéo dài hàng chục năm đến nay mới được phát hiện và xử lý. Nguyên nhân của phần lớn các vụ án oan sai này đều xuất phát từ sai lầm của các cơ quan bảo vệ pháp luật, thậm chí là có vụ án còn sai ngay từ giai đoạn điều tra. Số vụ án oan liên quan đến hoạt động điều tra của CQĐT trong quá trình hỏi cung, lấy lời khai của bị can chiếm một phần không nhỏ.
Chúng ta không thể có được một số liệu thống kê cụ thể về số vụ cũng như số người phạm tội về hành vi vi phạm pháp luật khi trong hỏi cung bị can trên phạm vi cả nước vì những sai phạm của CQĐT chỉ được phát hiện một thời gian sau khi bị can đã bị xét xử, thi hành án. Những sai phạm này chủ yếu là những người có thẩm quyền không tuân thủ triệt để những quy định, trình tự, thủ tục của Bộ luật TTHS trong quá trình hỏi cung. Sự không tuân thủ nghiêm chỉnh về hoạt động hỏi cung được biểu hiện ở một số dạng cơ bản sau:
Thứ nhất, Điều tra viên có những hành vi vi phạm các quy định pháp luật TTHS trong hoạt động hỏi cung (vi phạm về hình thức) Điều tra viên đã cố ý sửa chữa thời gian của các tài liệu có trong hồ sơ vụ án; cố tình không đưa vào hồ sơ vụ án tài liệu có lợi cho bị can mà chỉ đến khi tòa phúc thẩm hủy án sơ thẩm và yêu cầu bổ sung chứng cứ thì những tài liệu mới “xuất hiện”. Thậm chí, trong quá trình hỏi cung, Điều tra viên không ghi chép đầy đủ vào Biên bản hỏi cung như việc lấy lời khai của bị can bằng video, ĐTV cũng không phát lại video hỏi cung cho bị can xem hay như hành động mớm cung cho các bị can bằng cách cho các bị can nghe băng cassette, xem băng video về lời khai của những người có liên quan tới các vụ án khác trước khi trả lời.
Thứ hai, Điều tra viên áp dụng các biện pháp hỏi cung trái pháp luật như bức cung, dùng nhục hình (vi phạm về nội dung). Đây là hành vi vi phạm pháp luật phổ biến của CQĐT gần đây.
Trong những năm qua, hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự ở nước ta có nhiều tiến bộ. Tình trạng lạm dụng chức vụ, quyền hạn trong hoạt động tư pháp làm trái pháp luật, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng như bị can, bị cáo đã giảm đáng kể. Pháp luật không cho phép công chức, viên chức, cán bộ lợi dụng chức vụ quyền hạn để gây tổn hại đến sức khỏe, tinh thần của nhân dân, gây tổn hại tới uy tín của Đảng và Nhà nước. Đặc biệt, trong tố tụng hình sự, Nhà nước Việt Nam cũng thể hiện cam kết chống lại mọi hành vi tra tấn đối xử tàn bạo và bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền cơ bản của con người khi ký kết Công ước và phê chuẩn Công ước tra tấn của Liên Hợp Quốc. Hành vi dùng nhục hình, bức cung không chỉ là hành vi vi phạm pháp luật mà còn tạo ra một hình tượng xấu về người công chức, cán bộ khi thực hiện nhiệm vụ. Nếu không phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh thì đây sẽ tạo điều kiện cho các thế lực thù địch, bọn phản cách mạng trong và ngoài nước lợi dụng để tuyên truyền phản động, nói xấu chính quyền, lôi kéo quần chúng chống lại Nhà nước, gây ra những bất ổn lớn về mặt chính trị.
Thứ ba, về việc bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của bị can trong quá trình hỏi cung trên thực tế còn nhiều khó khăn.
Bộ luật TTHS quy định cơ quan điều tra cần phải tạo điều kiện để bảo đảm cho bị can thực hiện quyền bào chữa. Tuy nhiên, do nhận thức pháp luật còn hạn chế cũng như yếu tố tâm lý e ngại nên nhiều bị can không dám thực hiện quyền tự bào chữa cho mình. Họ cho rằng tự bào chữa sẽ bị cho là chống đối, ngoan cố, không thành khẩn khai báo và dễ bị mất đi tình tiết giảm nhẹ. Vì vậy, việc bảo đảm quyền tự bào chữa của bị can trong hoạt động hỏi cung rất khó thực hiện. Để bào chữa cho mình, bị can thường phải nhờ người khác như: bào chữa viên nhân dân, luật sư, người đại diện hợp pháp cho bị can là người chưa thành niên. Đối với những vụ án mà bị can phạm tội có khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình hoặc bị can là người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất, bị can là người chưa thành niên, thì dù bị can không nhờ những quy định pháp luật bắt buộc có người bào chữa. Những người bào chữa này thường người của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoặc Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa nên thực tế việc tham gia này chỉ là về mặt hình thức nên chất lượng bào chữa không cao. Người bào chữa chỉ làm thủ tục để được cấp giấy chứng nhận người bào chữa và chỉ có mặt trong một vài buổi hỏi cung một cách qua loa. Theo quy định của Bộ luật TTHS hiện hành, người bào chữa có quyền có mặt khi hỏi cung bị can, nếu được ĐTV đồng ý thì được hỏi bị can. Việc có cho phép được hỏi bị can hay không là hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của ĐTV đã làm giảm ý nghĩa của quy định vì có trường hợp ĐTV cho người bào chữa vào hỏi cung nhưng không được hỏi mà chỉ cho “ngồi nghe”. ĐTV dường như không để ý đến sự có mặt của người bào chữa và ý kiến đề xuất của họ. Bộ luật TTHS cũng quy định người bào chữa có quyền đề nghị CQĐT báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can. Thực tế có trường hợp ĐTV thông báo nhưng người bào chữa không đến, hoặc có đến những buổi hỏi cung đã kết thúc. Vì vậy, có người bào chữa cho rằng cơ quan điều tra đang né tránh không muốn cho người bào chữa có mặt trong buổi hỏi cung. Pháp luật trao quyền cho người bảo chữa được gặp bị can đang bị tạm giam để bảo đảm quyền bào chữa.
Tuy nhiên lại chưa có văn bản hướng dẫn thống nhất nên để đảm bảo quyền này còn gặp nhiều khó khăn như: người bào chữa được gặp bị can từ thời điểm nào và khoảng thời gian được gặp bao lâu. Điều này lại để gây ra sự hiểu nhầm là CQĐT gây khó khăn cho người bào chữa trong việc được gặp người bị tạm giữ, bị can nhất được gặp từ thời điểm nào và khoảng thời gian được gặp bao lâu. Theo khảo sát ý kiến các luật sư trong Báo cáo “Quyền bào chữa trong pháp luật tụng Hình sự và thực tiễn tại Việt Nam” cho thấy, trong giai đoạn điều tra, CQĐT hầu hết là không tạo điều kiện cho luật sư tiếp cận được khách hàng của mình. Trong số 8 hoạt động điều tra được khảo sát, các luật sư chủ yếu tham gia “hỏi cung” và “đối chất”. Tuy nhiên, khi được phỏng vấn trực tiếp thì các luật sư cho rằng chủ yếu họ chỉ được tham gia vào buổi “tổng cung” (buổi lấy lời khai cuối cùng về tất cả các vấn đề đã được khai báo). Tại buổi “tổng cung”, các luật sư chỉ được chứng kiến bị can khai lại những vấn đề mà điều tra viên đã hỏi chứ không được hỏi hay tư vấn cho bị can. Các luật sư mới chủ yếu đóng vai trò nhân chứng và hỗ trợ tinh thần cho bị can mà không được can thiệp được vào quá trình thẩm vấn. Nhưng điều này phải được sự cho phép của ĐTV theo quy đinh của pháp luật.
Nhiều luật sư cho rằng hiệu quả làm việc giữa luật sư và khách hàng là không cao do đa số các buổi “tổng cung” là buổi gặp đầu tiên của luật sư và khách hàng. Có ý kiến cho rằng, theo quy định của Bộ luật TTHS thì người bào chữa phải đề nghị cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can, tức là cơ quan điều tra nếu không nhận được yêu cầu của người bào chữa thì không có trách nhiệm phải thông báo về thời gian, địa điểm hỏi cung bị can. Nếu phương thức thông báo được tiến hành qua đường bưu điện, thì có khả năng người bào chữa nhận được thông báo thì đã qua thời gian hỏi cung hoặc có trường hợp người bào chữa không nhận được do bị thất lạc. Quy định này chỉ yêu cầu thông báo về lịch hỏi cung còn cáchoạt động tố tụng khác thì cơ quan điều tra không phải thông báo. Do vậy, người bào chữa gặp rất nhiều khó khăn khi thực hiện quyền bào chữa của mình trong hoạt động hỏi cung.
Thứ tư, phối kết hợp giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra trong hoạt động hỏi cung bị can còn chưa có sự đồng thuận cao quan
Mối quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân với Cơ điều tra bắt đầu từ giai đoạn tiếp nhận, giải quyết tố giác tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố đến khi kết thúc điều tra vụ án, là mối quan hệ công tác trong hoạt động tố tụng hình sự, có ý nghĩa hết sức quan trọng, được Bộ luật Tố tụng hình sự quy định cụ thể, chi tiết và được các Thông tư liên ngành hướng dẫn thực hiện như: Thông tư số 05/2005/TTLT ngày 07/9/2005 về quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân và Cơ quan điều tra trong điều tra, truy tố các vụ án hình sự; Thông tư số 01/2010/TTLT ngày 28/7/2010 của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
Thứ năm, cơ quan điều tra còn chậm trong việc báo cáo việc tiếp nhận, giải quyết vụ án trong đó có hoạt động hỏi cung bị can dẫn đến việc Viện kiểm sát chưa nắm bắt kịp thời quá trình hỏi cung bị can, để phát hiện những vấn đề phát sinh trong quá trình hỏi cung để đưa ra hướng giải quyết phù hợp tiếp theo. Về phía Viện kiểm sát, hiện vẫn chưa chủ động trong quá trình theo dõi, kiểm sát quá trình hỏi cung bị can của Cơ quan điều tra mà thụ động chờ kết quả, báo cáo từ Cơ quan điều tra dẫn đến việc không kịp thời phát hiện và xử lý các vướng mắc trong quá trình hỏi cung bị can phát sinh. Kiểm sát viên chưa chủ động tham gia hỏi cung với Điều tra viên trước khi vụ án kết thúc điều tra để kiểm tra lời khai của bị can có phù hợp với chứng cứ tài liệu thu thập được hay không. Nếu bị can chối tội, phản cung thì do lý do gì. Chính vì thế, tiến độ hoạt động hỏi cung bị can còn chậm, đôi khi bị can kêu oan nhiều dẫn đến việc hỏi cung phải tiến hành nhiều lần.
Thứ sáu, hạn chế trong bảo đảm hình thức pháp lý của biên bản hỏi cung bị can. Quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự Kiểm sát viên thường chú trọng xem bị can khai báo như thế nào, có nhận tội không, lời khai trong các biên bản hỏi cung bị can có gì mâu thuẫn và mâu thuẫn như thế nào, đã được giải quyết chưa.v.v. mà ít quan tâm đến việc đảm bảo hình thức pháp lý của biên bản hỏi cung bị can như: Biên bản hỏi cung bị can bị tẩy xóa, viết thêm phải có chữ ký xác nhận của bị can và Điều tra viên; biên bản hỏi cung có thể hiện ngày, giờ, địa điểm bắt đầu hỏi cung và ngày giờ kết thúc buổi hỏi cung, bị can phải ký xác nhận và Điều tra viên ký tên, đóng dấu. Những lỗi này rất thường gặp trong một số biên bản hỏi cung bị can. Ở giai đoạn này các Điều tra viên thường chỉ chú trọng đến việc thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm đã xảy ra và làm rõ hành vi đó phạm vào tội danh nào được quy định trong Bộ luật hình sự mà ít chú trọng đến tính logic và tính thống nhất của nội dung và hình thức biên bản hỏi cung bị can với các dấu vết, chứng cứ khác của vụ án.
Đối với Kiểm sát viên: Sau nghiên cứu phê chuẩn tập hợp các tài liệu để xây dựng hồ sơ kiểm sát không yêu cầu Điều tra viên về hình thức pháp lý của các biên bản hỏi cung bị can, thì sẽ gây khó khăn cho Kiểm sát viên trong việc xem xét đánh giá hành vi phạm tội của bị can cũng như tính hợp pháp của các tài liệu điều tra trong việc tập hợp, thu thập tài liệu xây dựng hồ sơ kiểm sát trong giai đoạn này.
Thứ bảy, Kiểm sát viên còn chưa phát hiện ra nhiều vi phạm của Điều tra viên trong quá trình hỏi cung bị can
Thực tiễn hoạt động điều tra vụ án hình sự cho thấy trong các trường hợp bị can không nhận tội, rất ít bị can khẳng định mình không có tội mà thường là bị can khai báo quanh co, không nhận tội, đổ tội cho người khác, hay bao biện rằng mình bị rủ rê lôi kéo mà không biết. Việc thực hiện hành vi phạm tội là vô tình, thậm chí bị đồng bọn lừa, đặt vào tình thế đã rồi để chối hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Các trường hợp này chủ yếu xẩy ra trong các vụ án phức tạp, mang tính đồng phạm, có nhiều bị can cùng tham gia thực hiện hành vi phạm tội và trong các vụ án có tình tiết phạm tội nhiều lần hoặc các bị can phạm nhiều tội khác nhau.
Quá trình điều tra, bị can không nhận tội thường phát sinh trong giai đoạn điều tra. Trong các giai đoạn truy tố, xét xử thì việc bị can không nhận tội thường được bị can đưa ra lý do như trong quá trình điều tra bị bắt ép khai, hoặc không được khai như vậy mà do Điều tra viên viết và bắt khai…để biện minh cho việc đã khai báo trong các bản cung tại cơ quan điều tra. Cũng có trường hợp Điều tra viên chủ quan, tự tin vào lời khai của bị can trong các biên bản hỏi cung bị can. Dạng vi phạm này thường xảy ra đối với những vụ án phạm tội quả tang, do một bị can thực hiện, hành vi phạm tội đơn giản, ít phức tạp. Vi phạm này thường được phát qua việc kiểm tra, đối chiếu thời gian, địa điểm hỏi cung bị can với thời gian, số lần trích xuất can phạm để hỏi cung thể hiện trên hệ thống sổ theo dõi trích xuất can phạm có trong nhà tạm giữ được lập theo biểu mẫu của Bộ Công an.
Ngoài ra, trong quá trình hỏi cung bị can, Điều tra viên còn hay có các vi phạm như: Quá trình hỏi cung bị can, Điều tra viên sử dụng các thủ thuật đặt câu hỏi mang tính chất chỉ dẫn, áp đặt có dấu hiệu bức cung, mớm cung hoặc dụ cung.
Tuy nhiên, Kiểm sát viên không phải lúc nào cũng nhận biết được các vi phạm của Điều tra viên để trực tiếp tham gia hỏi cung bị can theo như quy định tại điều 183 bộ luật Tố tụng năm 2015. Nguyên nhân là do Kiểm sát viên còn thiếu kinh nghiệm, trình độ chuyên môn để nắm bắt các vi phạm trong hoạt động hỏi cung bị can.
Thứ tám, Viện kiểm sát chưa phát huy tốt vai trò của mình trong hoạt động hỏi cung bị can dưới 18 tuổi do thiếu hiểu biết cần thiết về người dưới 18 tuổi. Trên thực tế, việc phân công Điều tra viên điều tra vụ án của cơ quan điều tra chưa có sự phân biệt giữa vụ án có người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi với người đã đủ 18 tuổi. Do đó, quá trình điều tra, điều tra viên thường chỉ tập trung làm rõ hành vi phạm tội mà chưa chú trọng việc điều tra về nguyên nhân, hoàn cảnh phạm tội, điều kiện sinh sống và giáo dục. Thực tế đó đòi hỏi cần có quy định cụ thể về tiêu chuẩn của điều tra viên khi tiến hành tố tụng với người dưới 18 tuổi, bao gồm cả chuyên môn nghiệp vụ và kiến thức tâm lý, khoa học giáo dục với người dưới 18 tuổi.
Thứ chín, quy định về thời hạn điều tra của người dưới 18 tuổi. Theo quy định của Bộ luật Hình sự và
2. Nguyên nhân của những hạn chế:
Thứ nhất, các quy định của pháp luật TTHS còn chưa hoàn thiện, đầy đủ. Mặc dù pháp luật tố tụng hình sự ở nước ta hiện nay đã có những thay đổi đáng kể để tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra các vụ án với tính chất phức tạp, mức độ nguy hiểm cho xã hội ngày càng cao. Tuy nhiên, để phù hợp hơn nữa với xu thế hội nhập quốc tế mạnh mẽ hiện nay thì đòi hỏi pháp luật Việt Nam phải hoàn thiện hơn nữa những quy định của hệ thống pháp luật hiện hành, nhất là các quy định của luật dân sự, luật hình sự, luật tố tụng hình sự. Hiện nay, có những quy định của ngành luật đã tiến hành nghiên cứu để bổ sung, sửa đổi, thay thế cho phù hợp với yêu cầu của tình hình mới nhưng lại chưa thay đổi quy định tại các văn bản hướng dẫn thi hành hay tại các ngành luật khác về vấn đề liên quan cho phù hợp; hay một số quy định của các ngành luật đặc biệt như quy định của Bộ luật TTHS về hỏi cung bị can còn chưa phù hợp với yêu cầu của thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm hiện nay. Chính điều này ảnh hưởng tới chất lượng của hoạt động điều tra cũng như hoạt động hỏi cung bị can của các Điều tra viên. Theo đó, không ít trường hợp luật ban hành chỉ mang tính định khung, hiệu quả và khả năng thực thi trên thực tế không cao.
Thứ hai, sự quá tải của các cơ quan điều tra trong hoạt động điều tra cũng là trong những nguyên nhân làm giảm hiệu quả hoạt động điều tra của cơ quan điều tra nói chung và hoạt động hỏi cung bị can nói riêng vì áp lực cao trong công việc khiến ĐTV dễ nảy sinh trạng thái nôn nóng, tâm lý căng thẳng muốn nhanh chóng điều tra, kết thúc vụ án nên không đảm bảo thực hiện tốt các nguyên tắc của Bộ luật TTHS khi hỏi cung, lấy lời khai của bị can hay ĐTV áp đặt ý chí của mình lên lời khai của bị can, qua loa, cẩu thả, chủ quan trong việc đánh giá tính khách quan trong lời khai của bị can. Bên cạnh đó, lực lượng phụ trách điều tra còn thiếu cùng với tính chất của các vụ án hình sự ngày càng khó khăn, phức tạp với nhiều tình tiết, thủ đoạn tinh vi khiến chất lượng hoạt động điều tra không được đảm bảo. Theo báo cáo kết quả thanh tra chuyên đề chấp hành pháp luật trong công tác tạm giữ, tạm giam của Thanh tra Bộ Công an cho thấy: trung bình mỗi Điều tra viên phải giải quyết 1 vụ án trong không quá 3 ngày, thậm chỉ 1 ngày/1 vụ. Đây là một áp lực công việc quá lớn đối với các ĐTV trong trình điều tra, giải quyết án hình sự.
Thứ ba, do sự hạn chế về trình độ nghiệp vụ, năng lực của ĐTV. Mặc dù đã được đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ nhưng hiện nay năng lực của ĐTV vẫn còn nhiều hạn chế. Những hạn chế về năng lực, trình độ của ĐTV khiển công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm chưa đáp ứng được những yêu cầu của thực tiễn hiện nay: ĐTV là chủ thể chính được giao nhiệm vụ quyền hạn trong hoạt động điều tra tội phạm nói riêng và hoạt động hỏi cung bị can nói chung. Do vậy, chất lượng, năng lực của ĐTV có vai trò quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả, chất lượng và tính khách quan, chính xác hoạt động hỏi cung bị can. Kết quả của hỏi cung bị can phụ thuộc vào các yếu tố như: ĐTV có lập trường chính trị vững chắc, có kinh nghiệm, kiến thức, nghiệp vụ đề ra và mưu trí trong việc lựa chọn, sử dụng các biện pháp điều tra hợp lý, đúng quy của pháp luật. Ngược lại, nếu năng lực của Điều tra viên hạn chế, chưa nắm vững chắc những quy định của luật hình sự, tố tụng hình sự, pháp luật tố tụng về hỏi cung bị can; thiếu kiến thức trong các lĩnh vực về kinh tế, kế toán, tài chính, khoa học công nghệ khi điều tra, xét hỏi những bị can trong các vụ án liên quan tới những lĩnh vực này; phương pháp điều tra còn hạn chế, thụ động, nặng về hành chính, khả năng mở rộng và khám phá án còn kém. là những nguyên nhân ảnh hưởng rất lớn tới tính chân thực khách quan trong hoạt động hỏi cung bị can.
Thứ tư, nguyên nhân khách quan cuối cùng đó là do sự phối kết hợp giữa cơ quan điều tra và viện kiểm sát mà cụ thể là hiệu quả của công tác kiểm sát của KSV đối với hoạt động hỏi cung bị can do ĐTV tiến hành còn chưa phù hợp, chặt chẽ. Quy chế kiểm sát điều tra xác định Kiểm sát viên phải có trách nhiệm kiểm sát việc hỏi cung bị can. Theo đó, VKS phải có trách nhiệm bảo đảm trong mọi giai đoạn TTHS, các hành vi dùng nhục hình, bức cung phải được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh để đảm bảo cho việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội: KSV có quyền yêu cầu ĐTV thực hiện đúng quy định tại Điều 131, 132, Bộ luật TTHS năm 2003 về biên bản hỏi cung bị can. Bảo đảm việc hỏi cung bị can phải đạt những yêu cầu đề ra như: làm sáng tỏ những yếu tố cấu thành tội phạm đã khởi tố, phải phân tích những mâu thuẫn trong lời khai của bị can để có được kết luận một cách khách quan. Trường hợp bị can có tội cũng phải kiểm tra đối chiều với các chứng cứ khác đã thu thập được hồ sơ để đánh giá lời nhận tội. Khi phát hiện bị can lúc chối tội, lúc nhận tội hay có dấu hiệu bị dùng nhục hình, bức cung, thì KSV phải trực tiếp kiểm tra phương pháp xét hỏi của ĐTV để phát hiện và ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật của ĐTV …
Tuy nhiên, thực tiễn hiện nay do số lượng Kiểm sát viên còn ít so với một lượng án quá lớn nên chất lượng của hoạt động hỏi cung bị can còn hạn chế, do vậy VKS không có điều kiện tham gia vào hầu hết các buổi hỏi cung bị can để có thể kiểm tra phương pháp xét hỏi của ĐTV đã tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật hay chưa, có hay không có dấu hiệu dùng nhục hình, bức cung đối với bị can,….. Bên cạnh đó, do trình độ, năng lực nghiệp vụ chuyên môn cũng như thái độ làm việc, trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp của một số KSV còn hạn chế khiến hiệu quả của công tác kiểm sát hoạt động hỏi cung chưa được cao. Có trường hợp KSV vì mục đích, động cơ vụ lợi cá nhân, “tiếp tay” cho một số ĐTV “tha hóa, biến chất” thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm thủ tục, trình tự hỏi cung bị can, làm sai lệch nghiêm trọng thông tin hồ sơ vụ án bị xâm phạm nghiêm trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, truy tố không đúng người, đúng tội, vụ án rơi vào bế tắc..; hay như việc khi tham gia hỏi cung bị can cùng ĐTV, do tinh thần trách nhiệm trong công việc kém, kiểm soát qua loa, “cẩu thả” mặc dù biết ĐTV còn hạn chế trong kỹ năng nghiệp vụ điều tra, nhưng đã “lờ” đi, không yêu cầu, nhắc nhở ĐTV phải dừng ngay những hành vi sai trái đó lại.
Như vậy, có thể thấy rằng nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế hiện nay khi tiến hành hỏi cung bị can nguyên nhân không nhỏ xuất phát từ ý thức của một bộ phận cán bộ của các cơ quan điều tra. Các ĐTV chỉ vì những động cơ không lành mạnh như vì thành tích cá nhân, tập thể họ sẵn sàng vi phạm pháp luật không tuân thủ các nguyên tắc thủ tục, trình tự pháp luật khi tiến hành hỏi cung bị can nhằm mục đích buộc bị can khai theo ý muốn của cá nhân, từ đó đem lại cho ĐTV một số món lợi vật chất hoặc tinh thần nhất định nào đó. Mặc dù với kiến thức, trình độ hiểu biết pháp luật của mình, ĐTV hoàn toàn nhận thức được rằng hành vi trái pháp luật của mình thực hiện sẽ gây ra những hậu quả vô cùng nghiêm trọng, khiến mục tiêu đề ra của hoạt động TTHS không đạt được, từ đó ảnh hưởng tiêu cực tới công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm hiện nay ở nước ta, làm giảm sút lòng tin của quần chúng nhân dân vào các cơ quan bảo vệ pháp luật.