Quyền sở hữu công nghiệp theo Luật sở hữu trí tuệ? Giới hạn quyền sở hữu công nghiệp theo Luật sở hữu trí tuệ?
Chủ sở hữu quyền sở hữu công nghiệp là chủ thể của quyền sở hữu công nghiệp và được hưởng quyền theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ đề ra. Bên cạnh đó nhằm mục đích bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thì Pháp luật có quy định trường hợp Giới hạn quyền sở hữu công nghiệp theo Luật sở hữu trí tuệ. Vậy cụ thể để biết thêm về Giới hạn quyền sở hữu công nghiệp theo Luật sở hữu trí tuệ. Tại bài viết dưới đây của
Cơ sở pháp lý:
Luật sư
1. Quyền sở hữu công nghiệp theo Luật sở hữu trí tuệ
Hiện nay sẽ không khó để chúng ta có thể nhận thấy sự phát triển của khoa học, kĩ thuật, công nghệ đó là quá trình là sáng tạo của con người và đã trở thành bộ phận cấu thành của lực lượng sản xuất có tính chất quyết định đến năng suất lao động. Tuy nhiên, tài sản “khoa học, kĩ thuật” mà con người tạo ra lại có những nét đặc thù không giống như các tài sản khác, đó là những tài sản vô hình mà bản thân người tạo ra nó không thể chiếm hữu cho riêng mình, chúng rất dễ bị tước đoạt, chiếm dụng.
Theo đó có thể thấy việc bảo vệ các thành quả của hoạt động sáng tạo được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Trong thời đại ngày nay, các hoạt động sở hữu công nghiệp đa dạng, phong phú không chỉ còn bó hẹp trong phạm vi một quốc gia mà mang tính toàn cầu. Việc Nhà nước quy định về sở hữu trí tuệ nói chung và quyền sở hữu công nghiệp nói riêng nhằm bảo vệ quyền của những người hoạt động trong lĩnh vực đặc biệt có ý nghĩa xã hội và kinh tế quan trọng.
Căn cứ theo quy định tại khoản 4 Điều 4
Nhưu vậy dựa trên khái niệm đưa ra ở trên có thể hiểu quyền sở hữu công nghiệp là quyền, nghĩa vụ của các chủ thể liên quan đến việc sử dụng, chuyển dịch các đối tượng sở hữu công nghiệp. Các quyền chủ quan này phải phù hợp pháp luật nói chung và pháp luật về quyền sở hữu công nghiệp nói riêng bao gồm các quyền nhân thân và quyền tài sản của các chủ thể trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp và các quyền như quyền ngăn chặn những hành vi xâm phạm hoặc cạnh tranh không lành mạnh đối với các quyền của những người sáng tạo ra hoặc người sử dụng hợp pháp các đối tượng đó.
Quyền sở hữu công nghiệp có thể hiểu đây là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh sau khi con người sáng tạo ra sản phẩm trí tuệ từ chất xám của họ và được pháp luật coi là các đối tượng sở hữu công nghiệp. Nếu hiểu theo nghĩa này, quyền sở hữu công nghiệp là quyền sở hữu đối với tài sản vô hình, Bên cạnh đó thì quyền sở hữu công nghiệp còn bao gồm các quy định trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Quyền sở hữu công nghiệp còn được hiểu dưới góc độ là quan hệ pháp luật cụ thể với đầy đủ các yếu tố hội tụ như chủ thể của quyền này, khách thể, nội dung của quyền sở hữu công nghiệp. Quyền sở hữu công nghiệp chỉ được hình thành trên cơ sở sự tác động của các quy phạm pháp luật về sở hữu công nghiệp đôi với các kết quả của hoạt động sáng tạo trong lĩnh vục sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ theo quy định.
Như vậy, từ những nội dung đã phân tích chúng ta thấy chủ thể của quyền sở hữu công nghiệp đó là tất cả các cá nhân, tổ chức như tác giả hay chủ sở hữu các đối tượng sở hữu công nghiệp hay có thể là các tổ chức, cá nhân được chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp theo quy định. Khách thể của quyền sở hữu công nghiệp đó là các kết quả của hoạt động sáng tạo trí tuệ vận dụng chất xám để tạo ra các sản phẩm và được áp dụng trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh như sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp hay như thiết kế bố trí, đăng ký nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lí, tên thương mại, bí mật kinh doanh. Nội dung của quyền sở hữu công nghiệp đó là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể quyền sở hữu công nghiệp được pháp luật ghi nhận và bảo hộ theo quy định của pháp luật.
2. Giới hạn quyền sở hữu công nghiệp theo Luật sở hữu trí tuệ
Quyền sở hữu công nghiệp của chủ sở hữu không phải là quyền tuyệt đối mà bị giới hạn bởi các yếu tố được quy định cụ thể trong pháp luật sở hữu trí tuệ. Các yếu tố hạn chế quyền sở hữu công nghiệp được ghi nhận tại Điều 132
Chủ thể quyền sở hữu trí tuệ chỉ được thực hiện quyền của mình trong phạm vi và thời hạn bảo hộ theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi bổ sung 2019 quy định cụ thể. Với từng yếu tố trên, pháp luật đã quy định chi tiết từ Điều 133 đến Điều 137
– Chủ sở hữu phải chuyển giao quyền sử dụng sáng chế theo quyết định của cơ quan Nhà nước trong trường hợp phục vụ vì mục đích công cộng, phi thương mại, quốc phòng an ninh, phòng bệnh, chữa bênh, dinh dưỡng cho nhân dân và đáp ứng các nhu cầu cấp thiết khác của xã hội.
– Quyền sử dụng trước đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp được quy định tại Điều 134 Luật Sở hữu trí tuệ: Trường hợp trước ngày đơn đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp được công bố mà có người đã sử dụng hoặc chuẩn bị các điều kiện cần thiết để sử dụng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp đồng nhất với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp trong đơn đăng ký nhưng được tạo ra một cách độc lập (sau đây gọi là người có quyền sử dụng trước) thì sau khi văn bằng bảo hộ được cấp, người đó có quyền tiếp tục sử dụng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp trong phạm vi và khối lượng đã sử dụng hoặc đã chuẩn bị để sử dụng mà không phải xin phép hoặc trả tiền đền bù cho chủ sở hữu sáng chế, kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ. Việc thực hiện quyền của người sử dụng trước sáng chế, kiểu dáng công nghiệp không bị coi là xâm phạm quyền của chủ sở hữu sáng chế, kiểu dáng công nghiệp. Theo quy định của pháp luật người có quyền sử dụng trước sáng chế và các kiểu dáng công nghiệp không được phép chuyển giao quyền đó cho người khác, chỉ trừ trường hợp chuyển giao quyền đó kèm theo việc chuyển giao cơ sở sản xuất, kinh doanh nơi sử dụng hoặc chuẩn bị sử dụng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp.
– Chủ sở hữu có nghĩa vụ trả thù lao cho tác giả sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí với mức thù lao được quy định tại Điều 135 Luật Sở hữu trí tuệ, cụ thể: 10% số tiền làm lợi mà chủ sở hữu thu được do sử dụng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí; 15% tổng số tiền mà chủ sở hữu nhận được trong mỗi lần nhận tiền thanh toán do chuyển giao quyền sử dụng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí. Với trường hợp có đồng tác giả thì chủ sở hữu trả mức thù lao quy đinh như trên cho tất cả các đông tác giả, các đồng tác giả tự thỏa thuận việc phân chia tiền thù lao do chủ sở hữu chi trả. Nghĩa vụ này tồn tại trong suốt thời gian bảo hộ.
– Đồng thời, chủ sở hữu còn có nghĩa vụ sử dụng sáng chế, nhãn hiệu nhằm đáp ứng nhu cầu an ninh quốc phòng, phòng bệnh, chữa bệnh, nhu cầu cấp thiết khác của xã hội. Chủ sở hữu phải sử dụng liên tục nhãn hiệu đó, nếu không được sử dụng liên tục trong năm năm trở lên thì quyền sở hữu nhãn hiệu sẽ bị chấm dứt.
– Ngoài ra, chủ sở hữu còn có nghĩa vụ cho phép người khác sử dụng sáng chế cơ bản để phục vụ cho việc sử dụng sáng chế phụ thuộc trong trường hợp sáng chế phụ thuộc được coi là bước tiến quan trọng về mặt kĩ thuật so với sáng chế cơ bản và có ý nghĩa kinh tế lớn. Nếu chủ sở hữu không đáp ứng yêu cầu mà không có lí do chính đáng thì cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có thể chuyển giao quyền sử dụng sáng chế đó cho chủ sở hữu sáng chế phụ thuộc.
Trên đây là thông tin do