Giao dịch dân sự vô hiệu là gì? Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội?
Giao dịch dân sự là một loại giao dịch được xác lập rất nhiều trong đời sống xã hội ngày nay. Giao dịch dân sự được xác lập rất nhanh và nhiều nhưng số giao dịch dân sự được xác định là vô hiệu thì cũng nhiều bởi vì giao dịch vô hiệu do các hành vi vi phạm điều cấn trong luật dân sự. Trong đó pháp luật này cũng quy định đối với giao dịch dân sự do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội sẽ bị coi là vô hiệu. Vậy pháp luật dân sự quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội như thế nào? Hãy cùng Luật Dương Gia tìm hiểu về nội dung này trong bài viết dưới đây:
Tổng đài Luật sư
Cơ sở pháp lý:
1. Giao dịch dân sự vô hiệu là gì?
Trên cơ sở quy định tại điều 116 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về giao dịch dân sự là: “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Tuy nhiên, từ quy định về giao dịch dân sự tại điều luật này chúng ta có thể xác định kết quả của việc xác lập giao dịch dân sự theo quy định tại bộ luật này là làm phát sinh quan hệ pháp luật dân sự, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự. Do đó, giao dịch dân sự còn được biết đến như là một sự kiện pháp lí làm phát sinh hậu quả pháp lí.
Bên cạnh đó, cũng quy định tuỳ từng giao dịch cụ thể mà làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự. Như vậy không những thế mà hành vi có ý thức của chủ thể nhằm đạt được mục đích nhất định được xác định là một gia dịch, cho nên giao dịch dân sự là hành vi mang tính ý chí của chủ thể tham gia giao dịch, với những mục đích và động cơ nhất định. Do vậy, cá thể xác định giao dịch dân sự vô hiệu khi không có một trong các điều kiện quy định tại Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015, với các điều kiện cụ thể:
Một là, Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;
Hai là, Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
Ba là, Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
Bốn là, Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định.
Băn là các trường hợp khác do
Như vậy, một giao dịch bị coi là vô hiệu nếu không đáp ứng đầy đủ các điều kiện nêu trên. Về nguyên tắc nếu một giao dịch dân sự không đáp ứng được một trong bốn điều kiện nêu trên thì bị coi là vô hiệu theo quy định tại Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015. Tuy nhiên, trong giới các nhà nghiên cứu luật dân sự của Việt Nam hiện nay đang tồn tại một vấn đề tranh luận về trình tự bị coi là vô hiệu của giao dịch khi thiếu một trong bốn các điều kiện đó.
Trên cơ sở quy định tại Điều 117 Bộ luật này về điều kiện để xác định hiệu lực của một giao dịch dân sự thì cũng căn cứ vào Bộ luật Dân sự năm 2015 này để tìm hiểu thêm về các điều kiện xác nhận giao dịch dân sự vô hiệu để việc xác nhận các loại hình giao dịch dân sự được bao quất nhất và thể hiện được tính bao quát của pháp luật trong các giao dịch khác nhau thì trong các trường hợp sau đây, giao dịch dân sự sẽ bị coi là vô hiệu:
Thứ nhất, Căn cứ xác định giao dịch dân sự vô hiệu tại Điều 123 Bộ luật Dân sự năm 2015 là do mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội. Trong đó, điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép thực hiện; Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.
Thứ hai, Căn cứ xác định giao dịch dân sự vô hiệu tại Điều 124 Bộ luật Dân sự năm 2015 là do giả tạo. Song khi xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo để che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu.
Thứ ba, Căn cứ xác định giao dịch dân sự vô hiệu tại Điều 125 Bộ luật Dân sự năm 2015 là do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện. Tuy nhiên, nếu người đại diện của người đó yêu cầu thì Tòa án sẽ tuyên giao dịch đó vô hiệu trừ trường hợp về độ tuổi, năng lực hành vi dân sự, cụ thể:
Một là, Giao dịch dân sự của người chưa đủ 06 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người đó;
Hai là, Giao dịch dân sự chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự với người đã xác lập, thực hiện giao dịch với họ;
Ba là, Giao dịch dân sự được người xác lập giao dịch thừa nhận hiệu lực sau khi đã thành niên hoặc sau khi khôi phục năng lực hành vi dân sự.
Thứ tư, Căn cứ xác định giao dịch dân sự vô hiệu tại Điều 126 Bộ luật Dân sự năm 2015 là do bị nhầm lẫn. Bỏi vì có sự nhầm lẫn khiến một bên hoặc các bên không đạt được mục đích và bên bị nhầm lẫn yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu trừ trường hợp mục đích của các bên đã đạt được hoặc có thể khắc phục được sự nhầm lẫn này làm mục đích của giao dịch vẫn đạt được.
Thứ năm, Căn cứ xác định giao dịch dân sự vô hiệu tại Điều 127 Bộ luật Dân sự năm 2015 là do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép. Do đó, khi một bên bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên giao dịch đó vô hiệu khi một bên trong giao dịch dân sự có hành lừa dối, đe dọa, cưỡng ép là những hành vi được hiểu một cách đơn giản lần lượt là: hành vi cố ý nhằm làm bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch đã xác lập và còn là hành vi cố ý nhằm khiến bên kia phải thực hiện giao dịch để tránh thiệt hại cho mình hoặc người thân thích của mình.
Thứ sáu, Căn cứ xác định giao dịch dân sự vô hiệu tại Điều 128 Bộ luật Dân sự năm 2015 là do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. Tuy nhiên trên thực tế thì việc các bên thực hiện giao dịch vào đúng thời điểm người có năng lực hành vi dân sự không nhận thức và làm chủ hành vi của mình.
Thứ bảy, Căn cứ xác định giao dịch dân sự vô hiệu tại Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015 là do không tuân thủ quy định về hình thức. Do đó, nếu giao dịch phải đáp ứng điều kiện về hình thức mới có hiệu lực thì phải đáp ứng yêu cầu về hình thức này. Ngược lại, nếu không thực hiện đúng như lẽ ra giao dịch phải được thực hiện bằng văn bản nhưng văn bản đó không đúng quy định hoặc bắt buộc phải có công chứng, chứng thực nhưng các bên không thực hiện… thì giao dịch đó sẽ vô hiệu. Dù vậy, khi một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch đó thì có thể yêu cầu Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch. Đặc biệt, giao dịch dân sự còn có thể bị vô hiệu từng phần khi phần bị vô hiệu đó không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại.
Như đã được nhắc đến ở trên thì các điều kiện được nếu ra ở đây nhằm mục đích xác minh được giao dịch dân sự đó có phải là giao dịch dân sự vô hiệu hay không. Chính vì thế đã phần nào giải quyết được hết những khó khăn, vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật về giao dịch dân sự, bởi vì, đối với các giao dịch dân sự rất đã dang vì có thể được xác định bằng miệng và không có giấy tờ chứng minh, nên các giao dịch dân sự này rất khó để giải quyết và việc pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hai bên trong giao dịch và người thứ ba cũng phức tạp không kém. Do đó pháp luật Dân sự nước ta đã quy định rất cụ thể về giao dịch dân sự vô hiệu và đối với giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội cũng được quy định rõ ở phần dưới đây.
2. Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội
Trước khi đi vào tìm hiểu các quy định của pháp luật Dân sự về giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội thì chúng ta cần tìm hiểu điều cấm và đạo đức xã hội được quy định ở đây như thế nào? Do đó, trên cơ sở quy định tại Điều 123. Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì điều cấm của pháp luật được biết đến là những quy định của pháp luật không cho phép một chủ thể nào đó thực hiện những hành vi nhất định. Cũng tại Bộ luật này thì đạo đức xã hội được xác định là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng. Chỉ những tài sản được phép giao dịch, những công việc được phép thực hiện không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội mới là đối tượng của giao dịch dân sự.
Từ những khái niêm trên thì, những giao dịch dân sự xác lập nhằm trốn tránh pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội là những giao dịch có mục đích và nội dung không hợp pháp, không làm phát sinh hiệu lực pháp luật của giao dịch đó. Vậy nên giao dịch dân sự vi phạm quy định này thì đương nhiên bị coi là vô hiệu không phụ thuộc vào ý chí của các bên tham gia giao dịch.
Khi các bên tham gia vào giao dịch dân vụ mà bị vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội thì hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu được xác định dưới góc độ pháp lý không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập. Ngoài ra khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, nhưng không phải giao dịch dân sự nào cũng có thể hoàng trả lại cho nhau những gì đã mất vậy nếu khi ở trong một giao dịch dân sự vô hiệu mà trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả. Không những thế mà theo quy định của Bộ luật này đối với bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó, bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.