Các giải pháp nâng cao vai trò của luật sư trong việc bảo vệ quyền được suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự: Hoàn thiện pháp luật và hoàn thiện về cơ cấu tổ chức hành nghề.
Mục lục bài viết
1. Các giải pháp về hoàn thiện pháp luật:
Sự hiện diện của quyền được SĐVT hay nguyên tắc SĐVT trong Bộ luật TTHS năm 2015 đã tiếp thu những tư tưởng pháp lý tiến bộ của nhân loại, nội luật hóa các quy định quốc tế về quyền con người, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động tố tụng hình sự trong quá trình giải quyết vụ án bảo đảm tính khách quan, công bằng. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng, thi hành quyền được SĐVT đang đặt ra những vấn đề cần nghiên cứu, xem xét nhằm hoàn thiện pháp luật để bảo đảm thực thi nghiêm túc và có hiệu quả quyền được SĐVT trong quá trình giải quyết vụ án.
Thứ nhất, bổ sung nội dung: Trường hợp có nội dung không rõ ràng trong quy định của pháp luật thì phải giải thích điều luật đó theo hướng có lợi cho người bị buộc tội.
Phần lớn những nội dung của quyền được SĐVT đã được đưa vào Bộ luật TTHS năm 2015 (Điều 13, Điều 15). Tuy nhiên, vẫn còn những nội dung của quyền được SĐVT chưa được đề cập, đặc biệt nhấn mạnh đến việc giải thích luật, khi có điều luật chưa được quy định rõ ràng gây ra nhiều cách hiểu khác nhau trong việc áp dụng pháp luật thì phải lựa chọn hướng giải thích có lợi cho người bị buộc tội.
Việc giải thích luật là tất yếu khách quan trong quá trình áp dụng pháp luật do không phải lúc nào người làm luật cũng dữ liệu hết tất cả các tình huống xảy ra trên thực tiễn. Khi giải thích luật cần dựa trên cơ sở khách quan mang tính thực tiễn để bảo đảm tính hợp lý, không trái với nguyên tắc chung đã được pháp luật thừa nhận. Tuy nhiên, việc giải thích phản ánh ý thức chủ quan của con người nên sẽ có những hướng giải thích khác nhau đối với cùng một sự việc, dẫn đến hậu quả có thể trái ngược nhau có lợi hoặc có hại cho người bị buộc tội. Thực tế này không đáp ứng được yêu cầu của việc bảo vệ quyền con người theo quy định về quyền được SĐVT trong tố tụng hình sự.
Thực tiễn tố tụng hình sự ở nước ta cho thấy khi áp dụng quy định pháp luật, các Cơ quan tiến hành tố tụng, nhất là Tòa án thường phải có giải thích luật. Do đó, để bảo đảm quyền con người và thể hiện đầy đủ nội dung của quyền được SĐVT trong tố tụng hình sự theo chuẩn mực của pháp luật quốc tế cần bổ sung nội dung “Trong trường hợp có nội dung không rõ ràng, thì phải giải thích điều luật đó theo hướng có lợi cho người đang bị điều tra, truy tổ hoặc bị kết án” vào Điều 13 Bộ luật TTHS năm 2015.
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung các quy định để tạo điều kiện cho việc thu thập, đánh giá, phân tích và sử dụng chứng củ
Theo quy định của Bộ luật TTHS hiện hành, trong giai đoạn điều tra, luật sư có quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can; nếu được điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can. Việc có mặt của luật sư trong các buổi lấy lời khai người bị tạm giữ, hỏi cung bị can giúp cho họ tự tin hơn trong việc khai báo, trình bày vụ việc, giúp ngăn ngừa vi phạm từ phía cơ quan tiến hành tố tụng, tránh tình trạng khi ra tòa có sự phản cung, khiếu nại việc dùng nhục hình, bức cung, mớm cung, …Trên thực tế, khi tham gia các hoạt động hỏi cung luật sư gặp không ít khó khăn, thể hiện việc cơ quan điều tra không
Để tạo điều kiện cho việc thu thập, đánh giá, phân tích và sử dụng chứng cứ, Bộ luật TTHS còn quy định luật sư có quyền gặp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Trên thực tế, việc gặp bị can, bị cáo của luật sư còn nhiều hạn chế, phải xuất trình nhiều giấy tờ, thủ tục phiền hà. Trong trường hợp được gặp bị can, bị cáo thì việc gặp, trao đổi đều có sự giám sát của điều tra viên hoặc cán bộ trại giam; thời gian và số lần gặp đều bị hạn chế. Việc luật sư gặp gỡ bị can, bị cáo để trao đổi những vấn đề có liên quan đến việc bào chữa là rất quan trọng, phải bảo đảm cho việc gặp gỡ có không gian riêng; không nên có bất kỳ sự can thiệp, cản trở nào từ phía cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, cơ quan quản lý trại giam; việc gặp gỡ không bị hạn chế số lần và thời gian gặp. Để tạo điều kiện cho luật sư được gặp riêng bị can, bị cáo thì việc giám sát chỉ trong “tầm nhìn” chứ không trong “tầm nghe”.
Khi tham gia tố tụng với tư cách người bào chữa, luật sư có quyền được nghiên cứu hồ sơ, được đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu có liên quan đến việc bào chữa. Nhiều vụ án có số lượng hồ sơ rất lớn và phức tạp nhưng thời gian dành cho luật sư nghiên cứu còn hạn chế; luật sư không được bố trí nơi ngồi để nghiên cứu mà phải ngồi ngoài hành lang, tiền sảnh để đọc hồ sơ vụ án.
Thứ ba, sửa đổi, bổ sung quy định nhằm bảo đảm nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa.
Tranh tụng là một trong những nội dung quan trọng, mang tính đột phá trong cải cách tư pháp hiện nay ở nước ta đã được xác định trong Nghị quyết 08-NQ/TW,
Có thể thấy, pháp luật tố tụng hình sự ở nước ta chưa thể hiện hết bản chất của tranh tụng. Không phải tất cả các bên đều có quyền thu thập chứng cứ trong giai đoạn điều tra như lấy lời khai của người làm chứng, yêu cầu cung cấp tài liệu chứng cứ, tham gia khám nghiệm hiện trường, … để chuẩn bị cho tranh luận tại phiên tòa.
Để bảo đảm quyền của người bị buộc tội, góp phần hạn chế đến mức tối thiểu và khắc phục tình trạng vi phạm quyền của bị can, bị cáo thì giải pháp mang lại hiệu quả là bảo đảm nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa, trong đó luật sư phải thực sự được coi là nhân tố quan trọng, đối trọng với cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong hoạt động TTHS. Thực tế hoạt động TTHS cho thấy vai trò của luật sư còn bị nhiều hạn chế, đây là vấn đề còn nhiều bức xúc. Những hạn chế, bất cập của pháp luật tố tụng hiện hành vô hình đã tạo nên nhiều phiên tòa mang tính hình thức, một số vụ án đã có “án bỏ túi” mà không căn cứ vào sự thật khách quan của vụ án đã được xác định tại phiên tòa, làm cho quyết định của Tòa án thiếu tính toàn diện, chính xác, khách Cần sửa đổi, bổ sung những bất cập hiện nay trong các quy định của Bộ luật TTHS theo hướng mở rộng, nâng cao vai trò, quyền và nghĩa vụ của luật sư. Các bên khi tham gia tố tụng phải có vị trí pháp lý bình đẳng về các quyền và nghĩa vụ tố tụng: Viện kiểm sát thực hiện nhiệm vụ thực hành quyền công tố; người bào chữa, bị cáo phải có quyền và nghĩa vụ tố tụng như nhau.
Ngoài yếu tố các bên tham gia tố tụng có địa vị pháp lý như nhau thì cần bảo đảm cho các bên khả năng thực sự để thực hiện các quyền tố tụng mà pháp luật quy định một cách hiệu quả, không chỉ là hình thức.
Thứ tư, sửa đổi, bổ sung các quy định bảo đảm, tôn trọng quyền của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Từ góc độ bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự nói chung, quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự nói riêng, những vấn đề cần quan tâm, thể hiện: i) Xác định đầy đủ, chính xác địa vị tố tụng, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể khi tham gia tố tụng, đặc biệt quyền và nghĩa vụ của người bị buộc tội; ii) Xác định sự cần thiết và mức độ sử dụng các biện pháp cưỡng chế trong tố tụng, nhất là các biện pháp ngăn chặn đối với người bị buộc tội; ii) Quy định các quyền, nguyên tắc và thủ tục tố tụng hợp lý để hạn chế các hành vi vi phạm quyền con người nhưng vẫn đảm bảo hiệu quả của tố tụng hình sự; iv) Quy định rõ ràng, đầy đủ quyền khiếu nại, tố cáo của người bị buộc tội đối với các hành vi vi phạm từ phía cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
Việc bảo đảm, tôn trọng quyền của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự cần tập trung vào việc quy định đúng đắn, hợp lý nội dung và thực hiện các nguyên tắc trong tố tụng hình sự. Các nguyên tắc thể hiện rõ nét quyền, lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, đó là: nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân, nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật, nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể, nguyên tắc bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân, nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín, nguyên tắc không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án, nguyên tắc được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi, …
Thứ năm, quy định rõ trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền trong quá trình giải quyết vụ án.
Bộ luật TTHS cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là chính và HĐXX đóng vai trò trọng tài, phân xử sau khi nghe hai bên công tố và luật sư tranh luận. Cần phải tăng thời gian tranh luận tại phiên tòa lên nhiều hơn nữa. Thông qua phần tranh tụng tại phiên tòa, các vấn đề của vụ án mới được cọ xát và làm sáng tỏ. HĐXX đóng vai trò tích cực trong việc điều khiển phiên tòa, đảm bảo quá trình tranh tụng đạt kết quả cao. Viện kiểm sát cần thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình là truy tố và chứng minh tội phạm. Tuy nhiên, để đảm bảo quá trình tranh tụng dân chủ, công khai tại phiên tòa cũng như nâng cao vai trò của luật sư trong hoạt động tranh tụng theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW, Nghị quyết số 49- NQ/TW của Bộ Chính trị thì cần phải có những bước đi phù hợp. Để thực hiện những nhiệm vụ đã được đề ra trong các Nghị quyết của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp đòi hỏi phải bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp và luật sư theo hướng phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, đồng thời xác định rõ vị trí, vai trò của luật sư trong hoạt động tư pháp.
Bên cạnh đó, cần quy định rõ trách nhiệm của người có thẩm quyền trong việc giải quyết khiếu nại kêu oan. Thể hiện ở việc cụ thể hóa các căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm; bổ sung cơ chế đặc biệt cho phép Hội đồng Thẩm phán TANDTC tự xem xét lại quyết định tái thẩm, giám đốc thẩm khi phát hiện có những sai lầm nghiêm trọng.
Thứ sáu, sửa đổi, bổ sung Luật Luật sư cho thích ứng kịp thời với các bộ luật, luật mới được ban hành, đảm bảo yêu cầu của thực tiễn hiện nay.
Theo quy định tại điều 72 Bộ luật TTHS năm 2015, người bào chữa có thể là luật sư, người đại diện của người bị buộc tội, bào chữa viên nhân dân, trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý. Trong khi đó, điều 10 Luật Luật sư quy định tiêu chuẩn luật sư, theo đó: luật sư là người có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khỏe bảo đảm, có phẩm chất đạo đức tốt; không phải là cán bộ, công chức, viên chức; sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; sĩ quan, hạ sĩ quan, công nhân trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân và Công an nhân dân (điểm a khoản 1 điều 18 Luật Luật sư). Trong số những người có thể là người bào chữa thì đội ngũ luật sư là lực lượng bào chữa chủ yếu.
Thời gian vừa qua chúng ta đã có nhiều cố gắng trong việc đào tạo đội ngũ luật, số lượng Đoàn luật sư ở các tỉnh, thành phố và số lượng luật sư không ngừng gia tăng. Tuy nhiên, Luật Luật sư hạn chế cán bộ, công chức, viên chức; sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan, công nhân trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân hành nghề luật sư. Theo báo cáo của Bộ Tư pháp và thống kê của các cơ quan có thẩm quyền, ở nước ta hiện nay tỷ lệ số luật sư hành nghề so với dân số còn quá thấp (01 luật sư/17.000 người, trong khi tỷ lệ này ở Thái Lan là 11/1.526, Singapore là 1/1.000, Nhật Bản là 1/4.546, Hoa Kỳ là 1/250…). Hơn nữa, số lượng luật sư tham gia tố tụng với tư cách người bào chữa có kinh nghiệm hiện nay còn nhiều hạn chế.
Đối với yêu cầu phân tích trên, trong điều kiện hiện nay không nên hạn chế đối tượng, đội ngũ hành nghề luật sư, mà cần phải mở rộng phạm vi đối với đội ngũ cán bộ có kiến thức chuyên môn, hiểu biết pháp luật, không có quyền, lợi ích liên quan đến vụ án vào việc bào chữa trong vụ án hình sự.
Không nên để tình trạng “độc quyền” hành nghề luật sư như hiện nay. Ngoài ra có thể hạ thấp tiêu chuẩn của người bào chữa để nhiều người có thể tham gia tố tụng trong vụ án hình sự với tư cách người bào chữa. Có như vậy, xã hội mới thu hút được đông đảo nhiều người có kiến thức pháp luật, kinh nghiệm thực tiễn giải quyết vụ án hình sự tham gia bào chữa, tăng cường bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội trong đó có quyền được SĐVT trong tố tụng hình sự.
2. Các giải pháp về tổ chức và hoạt động:
Theo ý kiến của một số nhà nghiên cứu, trong thời gian vừa qua, các cấp, các ngành đã không ngừng nỗ lực để tìm ra các giải pháp nhằm cải thiện, nâng cao tình hình chất lượng luật sư ở Việt Nam. Những cuộc điều tra, khảo sát xã hội học trong và ngoài nước đều cho thấy những định hướng, chính sách về chiến lược phát triển đội ngũ luật sư ở nước ra đang tiến gần hơn so với thế giới, đặc biệt trong công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ luật sư. Tuy nhiên, chất lượng của luật sư Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu là vấn đề mà các nhà quản lý luôn quan tâm.
Để nâng cao vai trò, vị trí của luật sư trong tố tụng hình sự nói chung và trong bảo vệ quyền được SĐVT nói riêng, bên cạnh các giải pháp về hoàn thiện pháp luật thì trước hết luật sư phải tự khẳng định chất lượng dịch vụ pháp lý do mình cung cấp. Việc khẳng định, nâng cao chất lượng dịch vụ pháp lý giúp xây dựng uy tín với khách hàng; làm thay đổi nhận thức, thái độ của cơ quan tiến hành tố tụng đối với hoạt động nghề nghiệp của luật sư. Để làm được điều này cần sự nỗ lực của mỗi một luật sư, tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức đào tạo luật sư và các cơ quan quản lý trong việc đào tạo và nâng cao chất lượng hành nghề luật sư. Cụ thể:
Thứ nhất: Luật sư cần được đào tạo tính chuyên nghiệp ngay từ khi đang là sinh viên tại các trường đại học, có định hướng nghề nghiệp và đào tạo kỹ năng nghề. Ở Việt Nam chương trình đào tạo ở bậc cử nhân không có chương trình đào tạo sinh viên để trở thành luật sư, kỹ năng hành nghề luật sư, các sinh viên được học chung các chương trình và chủ yếu tập trung vào phần lý luận, lý thuyết, các khái niệm pháp luật cơ bản. Sau khi ra trường, sinh viên muốn hành nghề luật sư phải tham gia khóa đào tạo hành nghề luật sư trong thời hạn 12 tháng tại các cơ sở đào tạo hành nghề luật sư theo quy định, trải qua một thời gian tập sự tại các tổ chức hành nghề luật sư. Để có thể chính thức trở thành một luật sư, sau khi kết thúc thời gian tập sự theo quy định, người tập sự phải trải qua kỳ thi kiểm tra do Bộ Tư pháp tổ chức và chỉ được cấp chứng chỉ hành nghề luật sư nếu đạt yêu cầu. Nhìn chung, quy trình đào tạo và công nhận luật sư ở Việt Nam cơ bản gần giống với nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, ở các nước có nghề luật sư phát triển hơn Việt Nam thường không có cơ sở đào tạo hành nghề luật sư riêng như Học viện Tư pháp ở Việt Nam mà ngay từ khi đang làm sinh viên luật đã được nhà trường định hướng nghề nghiệp và đào tạo kỹ năng hành nghề luật sư ngay từ khi đang là sinh viên đại học. Thời gian đầu, sinh viên sẽ được thực hành bằng các tình huống cụ thể đã xảy ra trên thực tế, dưới sự hướng dẫn của giảng viên từ đó đưa ra các quan điểm, lý luận. Những năm cuối, sinh viên được trực tiếp tiếp xúc với các vụ án, tình huống thực tế dưới sự chỉ dẫn của giảng viên hoặc chính từ các luật sư hành nghề. Chính vì được trực tiếp hướng dẫn nghề nghiệp và đào tạo kỹ năng nghề khi đang còn là sinh viên từ đó đã tạo động lực cho các sinh viên động lực để phấn đấu trở thành những luật sư trong tương lai, từ đó tích cực học tập, tích lũy kiến thức, kỹ năng nghề để tạo nền tảng cho việc hành nghề sau này. Điều này lý giải tại sao quy trình đào tạo và công nhận luật sư giữa Việt Nam với nhiều nước trên thế giới có nhiều nét tương đồng. Tuy nhiên, nhiều luật sư ở nước ngoài sau khi kết thúc thời gian tập sự đã có thể tham gia bào chữa, tư vấn pháp lý một cách độc lập, hiệu quả, mang lại nhiều lợi ích cho khách hàng. Trong khi đó, nhiều luật sư ở Việt Nam sau khi kết thúc thời gian tập sự chưa thể độc lập nghiên cứu hồ Sơ, tình huống, chưa đưa ra được luận cứ bảo vệ, phương án bào chữa hay chưa tư vấn một cách độc lập hiệu quả cho khách hàng.
Từ thực tế trên cho thấy Việt Nam cần có sự thay đổi mạnh mẽ trong hoạt động đào tạo, định hướng nghề luật sư, trong đó cần xác định xây dựng tính chuyên nghiệp cho luật sư trong hành nghề thông qua việc định hướng nghề nghiệp và đào tạo kỹ năng nghề. Định hướng nghề và đào tạo tính chuyên nghiệp tại trường học đòi hỏi sự nỗ lực của cả đội ngũ giảng viên và sinh viên; việc tiếp cận các tình huống, vụ việc cụ thể trên thực tế để nâng cao kỹ năng hành nghề và kiến thức pháp luật cho sinh viên cần có sự đồng hành của cơ quan tiến hành tố tụng, các tổ chức hành nghề luật sư, đây là vấn đề không phải dễ dàng có thể thực hiện được trên thực tế.
Thứ hai: Luật sư cần được bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ thường xuyên. Hiện nay, xã hội đang không ngừng thay đổi và phát triển, các mối quan hệ, thành phần xã hội ngày càng đa dạng, phức tạp và được pháp luật điều chỉnh, các văn bản quy phạm pháp luật ngày càng nhiều trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Do vậy, việc cập nhật kiến thức pháp luật mới cùng với việc nâng cao kỹ năng hành nghề là một yêu cầu đối với luật sư. Tuy nhiên, trên thực tế vấn đề này đã bị bỏ ngỏ trong một thời gian đã tạo nên thực trạng hạn chế của đội ngũ luật sư ở Việt Nam như hiện nay. Bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ là nghĩa vụ bắt buộc của luật sư đã được quy định trong Luật luật sư và Nghị định số 123/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật luật sư ngày 14/10/2013. Để thực hiện yêu cầu này, Bộ tư pháp đã ban hành thông tư hướng dẫn nghĩa vụ của luật sư trong việc tham gia bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ nhằm mục đích cập nhật kịp thời, đầy đủ kiến thức pháp luật, kỹ năng hành nghề và đạo đức nghề nghiệp. Vấn đề được đặt ra với cơ quan quản lý làm thế nào để các quy định về bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ của luật sư thực sự mang lại tác động tích cực đối với đội ngũ luật sư không chỉ là mang tính hình thức.
Cập nhật các văn bản quy phạm pháp luật mới là yêu cầu bắt buộc đối với mỗi luật sư không phân biệt chuyên môn, kinh nghiệm, thâm niên hành nghề. Luật sư mới hành nghề hay luật sư đã hành nghề lâu năm thì việc cập nhật văn bản quy phạm pháp luật, cập nhật các quy định mới là điều cần thiết. Việc luật sư tham gia giảng dạy tại các cơ sở đào tạo luật hoặc tham gia bồi dưỡng kỹ năng hành nghề luật sư ở trong và ngoài nước là môi trường để luật sư tiếp cận, tích luỹ kinh nghiệm và cập nhật kiến thức pháp luật. Ngoài ra, giữa các luật sư đồng nghiệp, tổ chức hành nghề luật sư tiến hành trao đổi, giao lưu, học hỏi cũng là một trong những giải pháp mang lại nhiều hiệu quả. Tuy nhiên, thực trạng hiện nay ý thức tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ của nhiều luật sư chưa cao, việc tự bồi dưỡng khó có thể mang lại hiệu quả. Vì vậy, luật sư bắt buộc tham gia lớp bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ do Liên đoàn luật sư, Đoàn luật sư tổ chức sẽ là hình thức phù hợp và mang lại hiệu quả nhất hiện nay. Ngoài ra, việc mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng theo từng chuyên ngành theo nhu cầu của luật sư; nhu cầu, tính chất của công việc theo các chuyên đề như thương mại quốc tế, hợp đồng kinh tế, dân đất đai, hình sự. Phương pháp bồi dưỡng này giúp luật sư có cơ hội, điều kiện phát triển chuyên sâu trong các lĩnh vự theo nhu cầu công việc của mỗi luật sư.
Thứ ba: Luật sư cần nâng cao tính chuyên nghiệp thông qua việc thể hiện rõ bằng hiệu quả công việc, tư cách và thái độ ứng xử của luật sư. Do vậy, luật sư cần được bồi dưỡng đạo đức nghề nghiệp thường xuyên, không phân biệt trình độ năng lực hay thâm niên hành nghề. Thực tiễn một số luật sư vi phạm pháp luật, vi phạm quy tắc đạo đức hành nghề luật sư cũng chính là những luật sư có trình độ và kinh nghiệm hành nghề lâu năm. Luật sư khi thường xuyên bồi dưỡng về đạo đức hành nghề nhất định sẽ thực hiện tốt vai trò, trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ quyền, lợi ích của khách hàng, bảo vệ công lý, góp phần làm hạn chế các vi phạm trong tố tụng hình sự, đảm bảo việc thực hiện quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự trong đó có quyền được suy đoán vô tội.
Trong tố tụng hình sự, sự tham gia của luật sư không chỉ giúp bị can, bị cáo bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình mà còn góp phần xác định sự thật khách quan của vụ án, giúp quá trình điều tra, truy tố, xét xử được tiến hành nhanh chóng, chính xác, đúng pháp luật. Tuy nhiên, trên thực tế vị trí, vai trò của luật sư chưa được nhìn nhận đúng, chưa thực sự bảo đảm yêu cầu của pháp luật. Theo quy định của tố tụng hình sự, luật sư có thể tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can, thậm chí còn sớm hơn kể từ khi có quyết định tạm giữ. Thực tế, tỷ lệ các vụ án luật sư tham gia từ giai đoạn điều tra còn quá thấp so với tổng số vụ án hình sự được khởi tố, trong đó bao gồm cả những vụ án sự tham gia của luật sư là bắt buộc theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng. Lý do này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, do bị can không biết mình có quyền mời luật sư hoặc biết nhưng không đủ khả năng tài chính để chi trả chi phí luật sư. Bên cạnh đó một phần nguyên nhân là do từ phía cơ quan tiến hành tố tụng chưa thực sự tạo điều kiện để luật sư thực hiện đầy đủ chức năng tố tụng của mình, một số Điều tra viên không ủng hộ việc luật sư tham gia tố tụng ngay từ giai đoạn điều tra. Sự không ủng hộ này thể hiện bằng cách khuyên bị can không nên mời luật sư, đánh vào tâm lý bị can tốt nhất là hãy khai báo trung thực, thành khẩn để được khoan hồng. Đối với những bị can kém hiểu biết pháp luật, đang trong tình trạng bị tạm giam, tạm giữ, trạng thái tâm lý bất ổn, lo lắng, do đó thường nghe theo lời khuyên nói trên của điều tra viên. Trường hợp bị can từ chối luật sư, khi luật sư đề nghị được xem văn bản từ chối của bị can thì điều tra viên lấy lý do là luật sư chưa hoàn tất thủ tục đăng ký bào chữa nên không được xem văn bản từ chối luật sư của bị can. Rất khó trong việc xác định được việc từ chối luật sư của bị can xuất phát từ ý chí của họ hay từ sự ép buộc, nhầm lẫn nào đó gây ra. Trong trường hợp này, cơ quan điều tra cần tạo điều kiện để người bị buộc tội tiếp xúc với luật sư, quyền từ chối luật sư của họ có thể được thực hiện ở bất cứ giai đoạn nào của quá trình tố tụng. Việc gặp gỡ luật sư không làm mất đi quyền từ chối luật sư của bị can, giúp bị can có nhận thức đúng hơn về vị trí, vai trò của luật sư trong quá trình tố tụng, giúp bị can sáng suốt hơn trong việc lựa chọn người bào chữa cho mình.
Thứ tư: Có chính sách khuyến khích các luật sư gia nhập các Đoàn luật sư ở các vùng xa xôi, hẻo lánh, vùng có khó khăn về điều kiện kinh tế – xã hội để tạo cơ cấu hợp lý về số lượng và chất lượng luật sư giữa các vùng, miền.
Thứ năm: Tạo điều kiện cho những luật sư đã có chứng chỉ hành nghề có thể đăng ký hành nghề ở bất kỳ Đoàn luật sư nào hoặc hành nghề tại các tổ chức hành nghề luật sư hoặc có thể hành nghề tự do với tư cách cá nhân để tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư và khách hàng tìm kiếm sự trợ giúp pháp lý của đội ngũ luật sư trong tố tụng hình sự và các lĩnh vực pháp lý khác nhằm bảo đảm quyền con người nói chung và quyền được SĐVT trong tố sự nói riêng.