Định hướng hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam.
Mục lục bài viết
1. Hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam:
1.1. Sự cần thiết và định hướng hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam:
Việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn xét xử sơ thẩm là yêu cầu tất yếu, yêu cầu đó thể hiện trên các khía cạnh sau:
Thứ nhất, do yêu cầu cải cách tư pháp
Trong quá trình lãnh đạo nhà nước, cải cách tư pháp là nhiệm vụ quan trọng được Đảng ta đề ra cùng với nhiệm vụ cải cách công tác lập pháp và cải cách hành chính nhằm thực hiện chủ trương lớn là “thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước”. Qua các kỳ Đại hội (từ Đại hội lần thứ VI, đến Đại hội lần thứ XII) và gần đây là Đại hội lần thứ XIII, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh chủ trương tiếp tục cải cách tư pháp và và đề cao việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng Đặc biệt Bộ Chính trị đã ra 2 nghị quyết chuyên đề đó là Nghị quyết số 08-NQ/TW về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và
Thứ hai, do đòi hỏi của thực tiễn áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
Cơ quan tiến hành tố tụng đã áp dụng các biện pháp ngăn chặn tạm giam để giải quyết tình hình tội phạm có hiệu quả. Tuy nhiên, tồn tại cần phải giải quyết trong quá trình đó là: nhiều trường hợp lạm dụng bắt khẩn cấp, tạm giam; thời hạn tạm giam kéo dài có chiều hướng tăng; tạm giữ hình sự thay cho tạm giữ hành chính; những vi phạm trong áp dụng biện pháp ngăn chặn gây hậu quả nghiêm trọng, như dùng tra tấn, nhục hình, nhục hình biến tướng đối với người bị tạm giam gây chết người; còn biểu hiện của tư tưởng “Quyền anh, quyền tôi” nên Cơ quan điều tra không chấp hành quyết định từ chối phê chuẩn của Viện kiểm sát đối với quyết định gia hạn tạm giữ lần thứ nhất, lần thứ hai; trả tự do trái pháp luật; việc trả tự do chiếm tỷ lệ cao đối với người bị tạm giam sau đó miễn trách nhiệm hình sự.
Thứ ba, do yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp ngăn chặn
Từ những tồn tại của thực tiễn áp dụng quy định về biện pháp ngăn chặn nói chung và biện pháp ngăn chặn tạm giam nói riêng cho thấy, pháp luật thực định có những nội dung còn thiếu, chưa được xác định hoặc chưa rõ nghĩa để từ đó, bổ sung, sửa đổi, hủy bỏ cho phù hợp với thực tiễn, đồng thời, đáp ứng được khả năng phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm theo dự báo tình hình tội phạm trong giai đoạn mới.
Dựa trên cơ sở những mục tiêu, quan điểm, phương hướng xây dựng và hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật tố tụng hình sự nói riêng đã được làm rõ, chúng ta cần có những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
1.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật:
Một trong những mục tiêu của việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về những biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn xét xử sơ thẩm là khắc phục những hạn chế, bất cập của BLTTHS năm 2015.
– Về việc ban hành quyết định thay đổi quyết định khởi tố: Như đã phân tích ở phần trên, khi xác định hành vi của bị can phạm vào khoản khác (có thể tội nhẹ hơn hoặc tội nặng hơn) trong cùng một tội danh, điều luật thì việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam cũng phải thay đổi, tương ứng với điều khoản của Điều luật mà bị can bị truy tố. Tại khoản 4 Điều 9 có quy định rõ khi xác định hành vi của bị can phạm vào khoản khác (có thể tội nhẹ hơn hoặc tội nặng hơn) trong cùng một tội danh, điều luật thì không thay đổi quyết định khởi tố bị can. Tuy nhiên cũng trong Thông tư trên, tại khoản 4 Điều 14 lại quy định trường hợp xác định được hành vi của bị can phạm vào khoản có khung hình phạt nhẹ hơn trong cùng tội danh …, ngay sau khi thay đổi quyết định khởi tố bị can. Như vậy, đối với trường hợp xác định hành vi của bị can phạm vào khoản khác trong cùng một tội danh, điều luật có hay không thay đổi quyết định khởi tố bị can trước khi áp dụng thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn trong đó có biện pháp ngăn chặn tạm giam. Cùng một nội dung có hai quy định đối lập nhau gây không ít khó khăn trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự. Do vậy, cần phải quy định rõ ràng, thống nhất. Thiết nghĩ, trong trường hợp trên, cần quy định khi xác định hành vi của bị can phạm vào khoản khác (có thể tội nhẹ hơn hoặc tội nặng hơn) trong cùng một tội danh, điều luật phải ban hành quyết định thay đổi quyết định khởi tố bị can tương ứng với điều khoản mà bị can bị khởi tố, từ đó áp dụng biện pháp ngăn chặn tương ứng.
– Về căn cứ áp dụng: Trong BLTTHS năm 2003 cũng như BLTTHS năm 2015 chưa có một khái niệm pháp lý về những biện pháp ngăn chặn. Pháp luật tố tụng hình sự quy định căn cứ để áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam còn sử dụng các thuật ngữ: “có thể”; “có quyền”; “thấy cần thiết “để đảm bảo việc truy tố”; “đảm bảo việc xét xử”; “đảm bảo việc thi hành án” làm cho việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam còn mang tính tùy nghi, thiếu cụ thể, rõ ràng. Do đó cần sửa đổi, bổ sung các quy định về các căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam với bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng; cần quy định căn căn cứ pháp lý cụ thể áp dụng hay thay đổi biện pháp ngăn chặn tạm giam, tránh tình trạng lạm dụng việc tạm giam và khắc phục được thực trạng người tiến hành tố tụng không dám mạnh dạn có quyết định kịp thời thay đổi biện pháp ngăn chặn tạm giam để bảo đảm tốt nhất quyền con người.
Cần bổ sung các quy định rõ hơn về trách nhiệm của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án khi xem xét quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam, thì ngoài các căn cứ theo quy định của BLTTHS, phải ưu tiên xem xét đến việc bảo đảm quyền con người cho bị can, bị cáo; cần phải huỷ bỏ ngay biện pháp ngăn chặn tạm giam khi thấy không cần thiết hoặc thay đổi biện pháp ngăn chặn khác để bảo đảm quyền con người cho bị can, bị cáo.
Cần quy định các loại trách nhiệm (hình sự, bồi thường, kỷ luật, tố tụng hình sự) đối với các vi phạm trong áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với người có thẩm quyền. Đặc biệt, hiện nay, trong pháp luật tố tụng hình sự chưa quy định chế tài tố tụng, hậu quả pháp lý của việc vi phạm căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam, vi phạm thời hạn tạm giam … dẫn đến vi phạm nghiêm trọng quyền con người của bị can, bị cáo bị tạm giam …
– Về thẩm quyền áp dụng: Cần sửa đổi quy định thêm về thẩm quyền ra quyết định áp dụng BPTG theo hướng bổ sung thẩm quyền cho cá nhân người tiến hành tố tụng là Kiểm sát viên, Thẩm phán. Bởi lẽ họ là người trực tiếp giải quyết vụ việc và chịu trách nhiệm cá nhân đối với hoạt động tố tụng của bản thân. Việc quy định quyền cho cá nhân người tiến hành tố tụng đồng nghĩa việc nâng cao trách nhiệm và hiệu quả của việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam.
– Về cách tính thời hạn tạm giam: Cách tính thời hạn tạm giam khi xác định hành vi của bị can phạm vào khoản có khung hình phạt nặng hơn trong cùng một điều luật thời hạn tạm giam được tính theo tội nặng hơn, nhưng phải trừ thời hạn đã điều tra, tạm giam trước đó. Vấn đề này trên thực tiễn phát sinh một số trường hợp rất khó khăn trong việc áp dụng. Cụ thể: Trong trường hợp bị can thực hiện hành vi về tội ít nghiêm trọng, đã được gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử 01 lần. Khi gần hết thời hạn điều tra, có căn cứ xác định bị can phạm tội vào khoản có khung hình phạt nặng hơn. Thời hạn tạm giam trước đó được trừ vào thời hạn tạm giam sau, tuy nhiên, đối với tội phạm nghiêm trọng, pháp luật quy định được phép gia hạn 01 lần. Như vậy việc gia hạn tạm giam lần 1 trước đó có được tính là đã gia hạn hay không? Và lần tạm giam sau có được gia hạn hay không? Hiện nay vẫn chưa có quy định hướng dẫn cụ thể đối với trường hợp này, dẫn đến thực tế áp dụng gặp nhiều khó khăn. Do vậy, cần có những quy định cụ thể hướng dẫn về việc tính thời hạn tạm giam trong trường hợp trên.
2. Giải pháp về cán bộ:
Mọi sự thay đổi, cải cách bảo đảm tăng cường tính tranh tụng tại phiên tòa, suy cho cùng vấn đề quyết định vẫn là con người. Nếu trình độ, năng lực, kinh nghiệm nghề nghiệp của đội ngũ Thẩm phán như hiện nay thì mục tiêu cải cách sẽ không đạt được. Vì vậy, việc tiêu chuẩn hóa đội ngũ này cần phải tiến hành đồng bộ với quá trình cải cách tư pháp theo một lộ trình hợp lý.
Cần nghiên cứu nâng cao chất lượng hình thức thi tuyển đội ngũ Thẩm phán, bao gồm thi tuyển vào ngạch Thẩm phán và thi tuyển từ Thẩm phán sơ cấp lên Thẩm phán trung cấp, từ trung cấp lên Thẩm phán cao cấp, từ cao cấp lên Thẩm phán tối cao. Nâng cao năng lực cho đội ngũ thẩm phán, thường xuyên tổ chức các đợt tập huấn, các hội thảo chuyên đề liên quan tạo điều kiện để đội ngũ Thẩm phán được cập nhật nguồn thông tin mới. Đổi mới tư duy trong nhận thức pháp luật. Nhận thức pháp luật và ý thức pháp luật có quan hệ mật thiết với nhau. Có nhận thức đúng, thì chấp hành mới đúng và ngược lại chấp hành đúng pháp luật chỉ có thể khi có nhận thức đúng. Trong TTHS, hoạt động áp dụng các BPNC nói chung và BPNC tạm giam nói riêng và nhiều hoạt động khác do thẩm phán, chánh án, phó chánh án thực hiện nên việc nâng cao trình độ chuyên môn, kiến thức pháp luật, cũng như đạo đức nghề nghiệp cho những người này có ý nghĩa quan trọng để nâng cao hiệu quả của hoạt động tố tụng nói chung và áp dụng BPNC nói riêng. Công việc ấy cần theo các nội dung sau:
Thứ nhất, cần xác định tư tưởng “trọng chứng cứ hơn trọng cung” cho thẩm phán để khắc phục tình trạng áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam hay cho các biện pháp ngăn chặn khác. Thực tiễn xét xử chúng ta vẫn không thể phủ nhận điều này, hiện nay vẫn còn một bộ phận nhỏ thẩm phán vẫn còn giữ quan điểm coi trọng chứng cứ hơn là những lời trình bày của bị cáo. Chứng cứ và lời khai của bị cáo được sử dụng trong việc tìm kiếm sự thật của vụ án nhưng chứng cứ được đánh giá quan trọng hơn lời khai. Bộ luật tố tụng hình sự quy lời khai trong quá trình điều tra cũng là chứng cứ nên đối với một số trường hợp bị cáo bị tạm giam, lời khai trong quá trình điều tra và lời khai tại phiên tòa mâu thuẫn với nhau, dẫn đến việc xác định đâu là lời khai đúng để tìm ra sự thật của vụ án. Thực tế trong quá trình tạm giam, các bị cáo bị sử dụng nhục hình, ép cung để đưa là những lời khai không đúng sự thật, ảnh hưởng đến kết quả giải quyết vụ án. Chính vì thế, đòi hỏi Thẩm phán phải có cái nhìn khách quan đối với lời khai và chứng cứ trong hồ sơ, tránh tình trạng “án tại hồ sơ”.
Thứ hai, thường xuyên bồi dưỡng, cập nhật kiến thức pháp luật nói chung và biện pháp ngăn chặn nói riêng cho đội ngũ thẩm phán, hội thẩm nhân dân. Việc bồi dưỡng, nâng cao kiến thức pháp luật cho đội ngũ thẩm thẩm nói riêng và người tiến hành tố tụng nói chung không chỉ là nhiệm vụ riêng trong ngành Tòa án mà còn là nhiệm vụ của cả một hệ thống chính trị. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ luôn được Đảng và Nhà nước ta hết sức chú trọng, đây được xem là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay. Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, việc nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ là hết sức cần thiết. Khi trình độ nhận thức của những người tiến hành tố tụng được nâng cao, việc vận dụng và đưa các quy định của pháp luật vào áp dụng được chính xác, hạn chế thấp nhất tình trạng sai sót, trái quy định. Bên cạnh bồi dưỡng kiến thức cho đội ngũ thẩm phán, việc bồi dưỡng kiến thức cơ bản về pháp luật cho Hội thẩm để có cơ sở, điều kiện thẩm vấn người tham gia tố tụng tại phiên tòa, đánh giá chứng cứ và biểu quyết có tội hay không có tội theo nhận thức của mình đúng với tinh thần của nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” được quy định tại Điều 16 BLTTHS.
Thứ ba, bảo đảm chế độ tiền lương và chính sách ưu đãi cho cán bộ. Hiện nay lương và chế độ chính sách đối với cán bộ công chức ngành Tòa án rất thấp cụ thể như khi được bổ nhiệm mới Thẩm phán sơ cấp thì lương bậc 1 với hệ số là 2,67 trong khi đó người thẩm phán đó trước khi được bổ nhiệm thì đang hưởng lương ở bậc thư ký là 2,67. Với mức lương như vậy thì không đủ đáp ứng cho nhu cầu sinh hoạt bình thường của mình và gia đình. Vì vậy cần được tăng lên đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tối thiểu. Để các Thẩm phán tránh những hiện tượng tiêu cực trong xét xử cũng như giải quyết các loại án. Để góp phần tăng cường sự tận tâm trong công tác của Thẩm phán cần nghiên cứu chế độ bổ nhiệm Thẩm phán suốt đời, (hiện nay nhiệm kỳ thứ 2 của Thẩm phán đã được nâng lên 10 năm), với chế độ chính sách lương cao để tránh những cám dỗ của cuộc sống khi xét xử, đồng thời quy định việc bãi miễn chỉ có thể được thực hiện thông qua việc cáo buộc. Có như vậy mới đảm bảo đội ngũ cán bộ công chức nói chung tận tâm toàn ý với công việc của mình mà thực hiện nhiệm vụ được giao hiệu quả nhất.
Thứ tư, cần có biện pháp nâng cao năng lực chỉ đạo, điều hành cũng như trách nhiệm của Chánh án, Phó Chánh án Toà án, những người có thẩm quyền luật định trong việc áp dụng, huỷ bỏ, thay thế biện pháp ngăn chặn tạm giam. Đặc biệt, tránh tình trạng trong vụ án, nếu bị can đã bị Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam, thì Toà án cũng tất yếu bị tạm giam theo, mà thiếu xem xét đầy đủ căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam khi mà quá trình thu thập chứng cứ đã được thực hiện đầy đủ.
2.1. Tăng cường cơ sở vật chất cho các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và các Toà án nói riêng:
Hiện nay cơ sở vật chất, điều kiện để bảo đảm công tác giam giữ cũng như công tác xét xử tại các cơ sở giam giữ cũng những tại các trụ sở
2.2. Hoàn thiện chế độ trách nhiệm đối với người tiến hành tố tụng:
Nâng cao trách nhiệm của Nhà nước đối với công dân luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, chú trọng. Hiện nay, pháp luật về bồi thường Nhà nước đã được thực thi, trách nhiệm của người có thẩm quyền từng bước được quy định rõ ràng hơn. Tuy nhiên, chế độ trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng hiện nay chưa thực sự bảo đảm. Việc xử lý đối với người có thẩm quyền vẫn chưa thực sự mang lại kết quả như mong đợi của nhân dân. Vì vậy, việc hoàn thiện chế độ trách nhiệm của người tiến hành tố tụng trong hoạt động tố tụng nói chung và việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam nói riêng là nhiệm vụ hàng đầu trong công cuộc cải cách tư pháp hiện nay.
Trước tiên, cần hoàn thiện các quy định về trách nhiệm hình sự đối với người có thẩm quyền ban hành các lệnh, quyết định tạm giam trái pháp luật. BLHS năm 2015 đã quy định về trách nhiệm của người có thẩm quyền về việc ra quyết định trái pháp luật (Điều 371). Tuy nhiên, việc quy định cấu thành tội phạm tại Điều 371, thực tiễn rất khó áp dụng, bởi nó xuất phát từ ý chí chủ quan của người có thẩm quyền. Quyền và lợi ích của người bị tạm giam vẫn chưa thể được bảo đảm. Thực tiễn xét xử, vẫn chưa có nhiều trường hợp người có thẩm quyền bị truy cứu trách nhiệm hình sự liên quan đến hành vi ban hành lệnh, quyết định tạm giam trái pháp luật. Việc chứng minh ý chí của người phạm tội khi ban hành các văn bản trái luật vẫn còn hạn chế và gặp nhiều khó khăn. Điều này dẫn đến việc quy định tội danh trong Bộ luật hình sự vẫn chỉ dừng lại ở mức hình thức, chưa thực tiễn. Do vậy, để quy định về trách nhiệm của người có thẩm quyền khi ban hành quyết định trái pháp luật được thực tiễn, cần có những bước tiến hơn, quy định cụ thể hơn về cấu thành cơ bản. Bên cạnh chế tài về hình sự, trong trường hợp vi phạm ở mức độ ít nguy hiểm hơn hoặc không đủ yếu tố cấu thành tội phạm có thể đưa ra những chế tài về mặt hành chính. Có như vậy mới đủ sức răn đe, đề phòng, ngăn ngừa việc lạm dụng quyền hạn để ban hành lệnh, quyết định tạm giam trái quy định của pháp luật.
Ngoài ra, về vấn đề bồi thường trách nhiệm Nhà nước cũng cần có những sửa đổi phù hợp hơn. Luật trách nhiệm Bồi thường Nhà nước năm 2017 cơ bản đã khắc phục những bất cập của Luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước năm 2009. Đó là một bước tiến mới trong tiến trình cải cách tư pháp của nước ta hiện nay. Tuy nhiên, trước sự thay đổi nhanh chóng của tình hình xã hội, điều kiện kinh tế. Cần có những bước hoàn thiện hơn nữa, rút ngắn về quy trình, nâng cao hiệu quả công tác bồi thường. Từ đó nâng cao trách nhiệm của người có thẩm quyền đối với hoạt động tố tụng do họ thực hiện.