Yêu cầu khắc phục những hạn chế của việc định tội danh và quyết định hình phạt tội gây rối trật tự công cộng. Các giải pháp bảo đảm hiệu quả định tội danh và quyết định hình phạt đúng đối với tội gây rối trật tự công cộng đúng.
Mục lục bài viết
- 1 1. Một số yêu cầu bảo đảm cho việc định tội danh và quyết định hình phạt đúng đối với tội gây rối trật tự công cộng:
- 2 2. Các giải pháp bảo đảm hiệu quả định tội danh và quyết định hình phạt đúng đối với tội gây rối trật tự công cộng đúng:
- 2.1 2.1. Hoàn thiện quy định của BLHS:
- 2.2 2.2. Nghiên cứu ban hành án lệ:
- 2.3 2.3. Nâng cao năng lực nhận thức và trình độ chuyên môn, kỹ năng vận dụng quy định pháp luật hình sự của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân:
- 2.4 2.4. Tăng cường công tác hướng dẫn, giải thích các quy định của BLHS trong tương quan với các văn bản pháp luật khác về hành vi gây rối trật tự công cộng:
- 2.5 2.5. Phối hợp các cơ quan, tổ chức với các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án để phòng ngừa, ngăn chặn và xét xử nghiêm minh tội gây rối trật tự công cộng:
- 2.6 2.6. Tăng cường công tác tuyên truyền về đấu tranh phòng, chống tội gây rối trật tự công cộng thông qua các phiên tòa lưu động:
- 2.7 2.7. Ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về tình tiết “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” trong tội gây rối trật tự công cộng:
1. Một số yêu cầu bảo đảm cho việc định tội danh và quyết định hình phạt đúng đối với tội gây rối trật tự công cộng:
1.1. Yêu cầu khắc phục những hạn chế của việc định tội danh và quyết định hình phạt tội gây rối trật tự công cộng:
Một Số quy định của pháp luật hình sự còn chưa rõ ràng, thiếu chặt chẽ dẫn đến tồn tại những hạn chế, thiếu sót trong việc định tội danh và quyết định hình phạt tội gây rối trật tự công cộng. Bên cạnh đó, vẫn còn một số cán bộ tư pháp trong quá trình giải quyết công việc thiếu bản lĩnh, còn bị tác động bởi lợi ích vật chất; do quan hệ hay do thiếu trách nhiệm, không tận tâm, tận lực trong công việc, do trình độ, năng lực, kinh nghiệm chuyên môn, trình độ chuyên sâu của cán bộ các chức danh tư pháp còn hạn chế. Và tồn tại biểu hiện nôn nóng, chạy theo thành tích, giải quyết cho xong việc, cộng với trình độ, năng lực yếu kém nên dẫn đến oan sai.
Vai trò của việc khắc phục những yếu kém trong công tác định tội danh vô cùng quan trọng và cần thiết. Việc này cần được tiến hành nghiêm túc, toàn diện trên toàn địa bàn tỉnh từ Tòa án cấp quận/huyện, cho tới Tòa án thành phố tại thành phố Hải Phòng để thực hiện tốt công cuộc cải cách tư pháp, đấu tranh phòng chống tội phạm.
1.2. Yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm phạm trật tự công cộng trong giai đoạn hiện nay:
Hiện nay, tình hình tội phạm vẫn diễn biến phức tạp, một số loại tội phạm có chiều hướng gia tăng, nhất là tội phạm xâm phạm trật tự công cộng như gây rối trật tự công cộng xảy ra tại thành phố Hải Phòng. Trong đó tập trung nhiều ở một số huyện có nhiều khu công nghiệp, tình hình an ninh chính trị phức tạp là Thủy Nguyên, Tiên Lãng, An Lão…
Do đó, để góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm hiện nay, góp phần duy trì trật tự an toàn xã hội trong tình hình mới, đảm bảo cuộc sống ổn định phát triển kinh tế của các cá nhân và tổ chức thì cần nâng cao hiệu quả hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt tội gây rối trật tự.
1.3. Yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp:
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, được Đảng ta đề ra tại các văn kiện Đại hội từ năm 1991 đến nay là cải cách tư pháp. Hơn nữa, những yêu cầu cần đạt được tại Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020: Công tác tư pháp phải ngăn ngừa có hiệu quả và xử lý kịp thời, nghiêm minh các loại tội phạm hình sự, đặc biệt là các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội tham nhũng và các loại tội phạm có tổ chức; bảo vệ trật tự kỷ cương; bảo đảm và tôn trọng quyền dân chủ, quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công dân.
Nâng cao hiệu quả hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt nói chung và đối với tội gây rối công cộng nói riêng có vai trò quan trọng thiết yếu, cần được giải quyết kịp thời để góp phần thực hiện những mục tiêu nêu trên.
2. Các giải pháp bảo đảm hiệu quả định tội danh và quyết định hình phạt đúng đối với tội gây rối trật tự công cộng đúng:
2.1. Hoàn thiện quy định của BLHS:
2.1.1. Về hậu quả để cấu thành tội gây rối trật tự công cộng:
Điểm khác biệt căn bản giữa việc quy định hậu quả của hành vi gây rối trật tự công cộng trong cấu thành cơ bản của BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015 là sự thay đổi từ “gây hậu quả nghiêm trọng” thành “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”.
Về mặt thuật ngữ, cấu thành cơ bản của tội gây rối trật tự công cộng quy định tại khoản 1 Điều 318 BLHS năm 2015 là nặng hơn và mở rộng hơn so với khoản 1 Điều 245 BLHS năm 1999. Trong BLHS năm 2015, chỉ cần hành vi gây rối trật tự công cộng “gây ảnh hưởng xấu” là đã phạm tội, không nhất thiết là cần phải gây hậu quả nghiêm trọng như quy định tại BLHS năm 1999.
Đối với hậu quả nghiêm trọng quy định trong BLHS năm 1999, trước đây tại tiểu mục 5.1 của Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của HĐTP TAND tối cao đã hướng dẫn cụ thể về “gây hậu quả nghiêm trọng” trong tội gây rối trật tự công cộng như sau:
5.1. Hành vi gây rối trật tự công cộng mà để hậu quả xảy ra thuộc một trong các trường hợp sau đây bị coi là “gây hậu quả nghiêm trọng” và phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 245 BLHS:
a. Cản trở, ách tắc giao thông đến dưới 2 giờ;
b. Cản trở sự hoạt động bình thường của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân;
c. Thiệt hại về tài sản có giá trị từ mười triệu đồng trở lên;
d. Chết người;
đ. Người khác bị thương tích hoặc bị tổn hại sức khoẻ với tỷ lệ thương tật từ 31 % trở lên;
e. Nhiều người bị thương tích hoặc bị tổn hại sức khoẻ với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 41% trở lên;
f. Người khác bị thương tích hoặc bị tổn hại sức khoẻ với tỷ lệ thương tật từ 21% đến 30% và còn thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm triệu đồng trở lên;
g. Nhiều người bị thương tích hoặc bị tổn hại sức khoẻ với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 30% đến 40% và còn thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm triệu đồng trở lên.
Ngoài các hậu quả xảy ra về tính mạng, sức khoẻ và tài sản được hướng dẫn trên đây, thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất như có ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, ngoại giao, đến trật tự, an toàn xã hội…
Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra có phải là nghiêm trọng hay không.
Theo như trên, tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng” trong BLHS năm 1999 đã được hướng dẫn và được áp dụng trong thực tiễn, không có vướng mắc bất cập gì. Trên cơ sở Nghị quyết 02/2003, BLHS năm 2015 đã pháp điển hóa thành Điều 318 với các tình tiết tương tự. Còn đối với tình tiết “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” trong BLHS năm 2015 đến nay mặc dù BLHS đã có hiệu lực và được thi hành hơn 02 năm, nhưng chưa có văn bản hướng dẫn áp dụng tiết tiết này dẫn đến gây nhiều vướng mắc, bất cập trong việc đấu tranh xử lý các đối tượng có hành vi gây rối trật tự công cộng.
Theo Nghị quyết 02/2003 của HĐTP TAND tối cao thì hành vi của các đối tượng đã gây hậu quả nghiêm trọng vì đã gây “Thiệt hại về tài sản có giá trị từ mười triệu đồng trở lên”. Tuy nhiên, hậu quả này không được coi là “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” để khởi tố về tội gây rối trật tự công cộng theo Điều 318 BLHS năm 2015.
Theo quan điểm của tác giả, tình tiết “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” là mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra, là hậu quả phi vật chất. Tại tiểu mục 5.1 Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của HĐTP TAND tối cao đã quy định:
“Ngoài các hậu quả xảy ra về tính mạng, sức khoẻ và tài sản được hướng dẫn trên đây, thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất như có ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, ngoại giao, đến trật tự, an toàn xã hội…”.
Do đó, HĐTP TAND tối cao quy định tại Nghị quyết số 02/2003 là tình tiết “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” có tính chất, mức độ như “hậu quả nghiêm trọng” hay nói cách khác “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” chính là “gây hậu quả nghiêm trọng”.
Đến nay, Nghị quyết số 02/2003 của HĐTP TAND tối cao chưa có văn bản nào bãi bỏ. Chúng ta vẫn áp dụng tiểu mục 5.1 của Nghị quyết 02/2003 hướng dẫn về tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng”, quy định tại Điều 245 BLHS năm 1999 để giải quyết các vụ án gây rối trật tự công cộng với tình tiết “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” quy định tại Điều 318 BLHS năm 2015.
Đây là ý kiến cá nhân của học viên, thiết nghĩ liên ngành Tư pháp Trung ương cần có văn bản hướng dẫn rõ, cụ thể tình tiết “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” quy định tại Điều 318 BLHS năm 2015 để các cơ quan tư pháp áp dụng thống nhất trong thực tiễn.
2.1.2. Về tình tiết định khung tăng nặng dùng vũ khí, hung khí:
Hành vi dùng “vũ khí, hung khí” khi gây rối sẽ là tình tiết định khung tăng nặng quy định tại điểm b khoản 2 Điều 318 BLHS năm 2015.
Hiện nay, Luật quản lý, sử dụng, vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ có hiệu lực từ ngày 01/7/2018 mới quy định về vũ khí, còn hung khí thì lại chưa được quy định trong bất kỳ văn bản pháp luật nào.
Trước đây, hung khí nguy hiểm được quy định tại mục 3
“Dùng hung khí nguy hiểm” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 104 của BLHS là trường hợp dùng vũ khí hoặc phương tiện nguy hiểm theo hướng dẫn tại các tiểu mục 2.1 và 2.2 mục 2 Phần I Nghị quyết số 02/2003/NQHĐTP ngày 17/04/2003 của HĐTP TAND tối cao để cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Tại tiểu mục 2 Nghị quyết 02/2003/NQ-HĐTP TANDTC quy định:
“Vũ khí” là một trong các loại vũ khí được quy định tại khoản 1 Điều 1 Quy chế quản lý vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ (ban hành kèm theo Nghị định số 47/CP ngày 12/08/1996 của Chính phủ). 2.2. “Phương tiện nguy hiểm” là công cụ, dụng cụ được chế tạo ra nhằm phục vụ cho cuộc sống của con người (trong sản xuất, trong sinh hoạt) hoặc vật mà người phạm tội chế tạo ra nhằm làm phương tiện thực hiện tội phạm hoặc vật có sẵn trong tự nhiên mà người phạm tội có được và nếu sử dụng công cụ, dụng cụ hoặc vật đó tấn công người khác thì sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng hoặc sức khỏe của người bị tấn công.
Tuy nhiên, đây là hướng dẫn về tình tiết hung khí nguy hiểm, và trong tội cố ý gây thương tích. Còn tình tiết hung khí thì lại chưa được hướng dẫn.
Nghiên cứu toàn bộ điều luật của BLHS năm 2015, tình tiết dùng hung khi được quy định duy nhất là tình tiết định khung tăng nặng của tội gây rối trật tự công cộng. Còn dùng hung khí nguy hiểm cũng được quy định duy nhất là tình tiết định tội đối với tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Đây là 2 thuật ngữ hoàn toàn khác nhau nên không thể sử dụng hướng dẫn hung khí nguy hiểm để giải thích cho thuật ngữ hung khí tại Tội gây rối trật tự công cộng được. Vì vậy, trong thời gian tới, cơ quan có thẩm quyền cần ban hành hướng dẫn về tình tiết dùng hung khí để bảo đảm việc áp dụng được thống nhất.
Bên cạnh đó, nghiên cứu điểm c khoản 2 Điều 318 BLHS năm 2015 bao gồm 2 tình tiết định khung tăng nặng:
– Gây cản trở giao thông nghiêm trọng
– Gây đình trệ hoạt động công cộng
Hiện nay, tình tiết gây cản trở giao thông nghiêm trọng được hướng dẫn tại điểm 5.2. của Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/04/2003 còn tình tiết gây đình trệ hoạt động công cộng lại không được hướng dẫn tại Nghị quyết này. Mặc dù điểm c khoản 2 Điều 318 BLHS năm 2015 và điểm c khoản 2 Điều 245 BLHS năm 1999 không có gì thay đổi.
Vì vậy, cần thiết phải bổ sung quy định hướng dẫn tình tiết gây đình trệ hoạt động công cộng.
2.1.3. Cần tách độc lập các tình tiết định khung tăng nặng tại khoản 2 Điều 318 BLHS:
Tình tiết quy định điểm b khoản 2 “Dùng vũ khí, hung khí hoặc có hành vi phá phách” và tình tiết quy định tại điểm c khoản 2 “Gây cản trở giao thông nghiêm trọng hoặc gây đình trệ hoạt động công cộng”, đây là 4 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Theo học viên, để đảm bảo tính khoa học, logic cần phải tách ra thành các tình tiết riêng để đảm bảo việc áp dụng được chính xác và thống nhất.
Như vậy, khi người phạm tội có hành vi gây rối trật tự công cộng và có dùng vũ khí, hung khí nhưng không có hành vi phá phách thì sẽ áp dụng tình tiết định khung hình phạt tăng nặng tại điểm c; còn nếu có cả hành vi phá phách thì áp dụng tình tiết định khung tăng nặng tại điểm c và điểm d.
Tương tự như trên, trong trường hợp người phạm tội có gây cản trở giao thông nghiêm trọng thì bị áp dụng tình tiết định khung tăng nặng tại điểm đ.
Việc tách bạch các tình tiết định khung tăng nặng đảm bảo tính khoa học, phân hóa chính xác các tình tiết định khung tăng nặng để quyết định hình phạt phù hợp.
2.2. Nghiên cứu ban hành án lệ:
Hiện nay, hệ thống án lệ đã được xây dựng tạo nên một nguồn áp dụng pháp luật và được áp dụng để xét xử, giải quyết các vụ án hình sự.
Sau khi Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP ngày 28/10/2015 được công bố về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ. Tính đến tháng 8/2021, đã có tổng số 43 án lệ được HĐTP TAND tối cao thông qua làm cơ sở cho việc thực hiện áp dụng pháp luật: có 24 án lệ hướng dẫn áp dụng pháp luật trong giải quyết vụ việc dân sự, 6 án lệ về hình sự, 2 án lệ hành chính.
Có thể thấy án lệ về hình sự chưa thật sự được chú trọng so với yêu cầu đặt ra đối với loại vụ án này, án lệ hình sự chỉ có 6 án lệ chỉ chiếm tỷ lệ 13.95% là chưa tương xứng.
Trong số 6 án lệ hình sự được công bố có: 03 án lệ về tội giết người, 01 án lệ về tội cướp tài sản; 01 án lệ về tội tham ô; 01 án lệ về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh; không có án lệ nào về tội gây rối trật tự công cộng.
Do vậy, thiết nghĩ trong thời gian tới, HĐTP TAND tối cao cần nghiên cứu ban hành án lệ về tội gây rối trật tự công cộng để bảo đảm việc xét xử được thống nhất, hiệu quả.
2.3. Nâng cao năng lực nhận thức và trình độ chuyên môn, kỹ năng vận dụng quy định pháp luật hình sự của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân:
Vấn đề nâng cao trình độ năng lực chuyên môn, bồi dưỡng phẩm chất chính trị nhất là kiến thức về xã hội cho đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân là hết sức quan trọng.
Bởi hiện nay, đa số các Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân tuy đã có trình độ đại học và lý luận chính trị, những kiến thức về ngoại ngữ, tin học… còn nhiều hạn chế.
Hơn nữa, trong điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội có bước phát triển mới cũng đòi hỏi các Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân phải cập nhật thông tin, kiến thức mới và đổi mới tư duy để hoàn thành nhiệm vụ.
Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật mới, nhiều đạo luật hiện hành được bổ sung, sửa đổi, hệ thống pháp luật đã có sự thay đổi căn bản. Việc này đòi hỏi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân phải thường xuyên nắm bắt những thay đổi của pháp luật để áp dụng đúng đắn, chính xác.
Để nâng cao trình độ năng lực, phẩm chất chính trị và kiến thức chuyên môn cho các Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân
– Đa dạng hoá các loại hình đào tạo, bồi dưỡng Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân.
Kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo, bồi dưỡng theo trường lớp với rèn luyện, thử thách Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân trong thực tiễn công tác và cuộc sống.
Những Thẩm phán đương nhiệm có khối lượng công việc rất lớn; trong đó Hội thẩm nhân dân là những người đã về hưu đang kiêm nhiệm các công việc khác nên việc đào tạo tập trung là khó thực hiện.
Vì vậy cần chú trọng hình thức bồi dưỡng, tập huấn ngắn ngày để bổ túc kiến thức nghiệp vụ; bồi dưỡng theo chuyên đề kết hợp với tổ chức các cuộc hội thảo tổng kết công tác thực tiễn và học tập Nghị quyết, chủ trương chính sách của Đảng một cách thường xuyên.
Cần quy định rõ trong mỗi nhiệm kỳ của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, phải có một thời gian thích hợp để mỗi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân được tham gia đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, cập nhật những thông tin mới về khoa học pháp lý để họ không lạc hậu về kiến thức lý luận.
– Để hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt tội gây rối trật tự công cộng của Tòa án đạt chất lượng, hiệu quả thì đội ngũ cán bộ, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký, Thẩm tra viên TAND các cấp phải có ý thức chính trị, phẩm chất đạo đức tốt, nhất là đạo đức nghề nghiệp.
Trong giai đoạn tới, khi chúng ta tiếp tục đẩy mạnh công cuộc cải cách tư pháp thì việc cán bộ, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân học tập, nghiên cứu các chuyên đề về chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quán triệt nghiêm túc và sâu rộng mọi đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, lấy kết quả học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác- Lênin, nghiêm túc thực hiện cuộc vận động “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” là một trong những tiêu chí đánh giá, xếp loại cán bộ.
Làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ công chức trong hệ thống Tòa án, đặc biệt là việc triển khai, quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc và các Nghị quyết của Bộ chính trị về cải cách tư pháp nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật đề cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị và Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân.
– Tăng cường công tác quản lý cán bộ, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân của Tòa án các cấp.
– Tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua thực hiện lời dạy của Bác Hồ đối với cán bộ Tòa án phụng công thủ pháp, chí công vô tư với phương châm: Gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân.
2.4. Tăng cường công tác hướng dẫn, giải thích các quy định của BLHS trong tương quan với các văn bản pháp luật khác về hành vi gây rối trật tự công cộng:
Hiện nay, việc tăng cường công tác hướng dẫn, giải thích các quy định của BLHS năm 2015 trong tương quan với các văn bản pháp luật khác về hành vi gây rối trật tự công cộng có ý nghĩa quan trọng để góp phần xử lý đúng người, đúng tội, đúng hành vi, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, tránh làm oan người vô tội.
Cần có văn bản hướng dẫn cụ thể các tình tiết định khung tăng nặng của khoản 1 Điều 318 BLHS năm 2015. Cần có văn bản hướng dẫn định tội danh trong các trường hợp phạm tội gây rối trật tự công cộng với các tội phá rối an ninh, tội giết người, tội cố ý gây thương tích, tội chống người thi hành công vụ và tội đua xe trái phép để bảo đảm định tội danh được đúng và chính xác trong thực tiễn.
Theo GS.TSKH. Lê Văn Cảm: Vì “định tội danh đúng sẽ là tiền đề cho việc phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật”. Tiếp tục cụ thể hóa và hoàn thiện các văn bản pháp luật hành chính trong lĩnh vực trật tự, an toàn xã hội có liên quan đến hành vi gây rối trật tự công cộng, làm cơ sở cho việc xử lý hành chính và là dấu hiệu định tội để xử lý hình sự.
Hiện nay, xử lý hành chính trong lĩnh vực này vừa qua Chính phủ đã ban hành Nghị định số 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh và trật tự, an toàn xã hội (thay thế
Trong đó, quy định các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh và trật tự, an toàn xã hội; hình thức xử phạt, mức phạt, các biện pháp khắc phục hậu quả; thẩm quyền xử phạt; trình tự, thủ tục xử phạt; khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự là hành vi vi phạm các quy định quản lý nhà nước về an ninh, trật tự do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý mà không phải là tội phạm và theo quy định của Nghị định này phải bị xử phạt vi phạm hành chính. Trong số các hành vi có hành vi gây rối trật tự công cộng chưa đến mức xử lý hình sự được quy định trong Chương II Nghị định này.
Trong thời gian tới, với các biểu hiện đa dạng của các hành vi phạm tội trong thực tiễn, chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện Nghị định này và giải thích rõ ràng hơn ranh giới giữa xử lý hành chính và xử lý hình sự.
2.5. Phối hợp các cơ quan, tổ chức với các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án để phòng ngừa, ngăn chặn và xét xử nghiêm minh tội gây rối trật tự công cộng:
Công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm hình sự nói chung, tội gây rối trật tự công cộng nói riêng luôn được tiến hành đồng bộ với sự tham gia đầy đủ của các cấp chính quyền, cơ quan đoàn thể, tổ chức xã hội, đặc biệt là lực lượng chuyên trách trong Công an và sự nhiệt tình ủng hộ của quần chúng nhân dân.
Muốn vậy, cần phải có một kế hoạch làm việc khoa học, có sự phối hợp nhịp nhàng, thường xuyên hỗ trợ nhau trong việc thu thập và củng cố chứng cứ giữa Tòa án và Viện kiểm sát. Phải kịp thời nghiên cứu để phát hiện những mâu thuẫn, những nội dung cần làm rõ về hành vi phạm tội, khắc phục những thiếu sót về chứng cứ và thủ tục tố tụng.
” Ngoài ra, cần chủ động phối hợp giữa các cơ quan tư pháp và các cơ quan chức năng khác trên cơ sở pháp luật quy định để xử lý nghiêm minh các vụ gây rối trật tự công cộng, như tổ chức xét xử công khai, lưu động để nâng cao việc giáo dục, tuyên truyền pháp luật đối với quần chúng, nâng cao khi thế của quần chúng nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm này.
Đồng thời, cần tổ chức nắm vững tình hình, giải quyết dứt điểm những tranh chấp, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, giữa nhân dân với chính quyền, cá nhân người có chức vụ, quyền hạn, nhất là ở các “điểm nóng”, các tranh chấp đất đai, mâu thuẫn nội bộ họ hàng, giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Cần huy động các ngành, các cấp, các tổ chức xã hội cùng tham gia vào công tác phòng, chống tội phạm, phát động quần chúng tố giác tội phạm gắn với đấu tranh chống tiêu cực, chống tham nhũng trong nội bộ, củng cố được các tổ chức chính trị ở cơ sở và có biện pháp đấu tranh với những hành vi gây rối trật tự công cộng từ cơ sở.
2.6. Tăng cường công tác tuyên truyền về đấu tranh phòng, chống tội gây rối trật tự công cộng thông qua các phiên tòa lưu động:
Trong công cuộc đấu tranh phòng, chống các tội phạm và các tệ nạn xã hội, cần xác định mục tiêu phòng ngừa phải đặt lên trên hết. Để đạt được mục tiêu phòng ngừa các tội phạm thì thông qua các phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, đặc biệt là thông qua các phiên tòa lưu động để tuyên truyền sâu, rộng cho mọi người dân hiểu được tác hại của gây rối trật tự công cộng cũng như những quy định cấm đoán của pháp luật đối với các hành vi bị coi là gây rối trật tự công cộng.
Qua các hình thức tuyên truyền, giáo dục pháp luật khác nhau, giúp cho nhân dân hiểu thêm các quy định của BLHS quy định hành vi nào sẽ bị xử lý hình sự và phải chịu trách nhiệm nghiêm khắc nhất là hình phạt. Khi đã hiểu rõ các quy định của BLHS về tội phạm và hình phạt kèm theo thì mọi người sẽ tự giác tránh xa và có ý thức phòng, chống tội phạm trước hết là đối với bản thân và gia đình họ.
2.7. Ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về tình tiết “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” trong tội gây rối trật tự công cộng:
Điều 318 BLHS năm 2015 đã quy định: “Người nào gây rối trật tự công cộng gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội… thì bị phạt tiền từ …
Như vậy, tình tiết “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” là một trong những tình tiết cấu thành tội gây rối trật tự công cộng. Chỉ người nào có hành vi gây rối trật tự công cộng mà “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” thì mới phạm tội gây rối trật tự công cộng, còn không “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” thì không phạm tội. Trong thực tiễn, việc nhận thức thế nào là “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” còn có nhiều quan điểm khác nhau, điều này gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự. Bàn về vấn đề này, chúng tôi có một số ý kiến trao đổi như sau:
Trước đây, BLHS năm 1999 quy định về tội gây rối trật tự công cộng tại Điều 245 quy định tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng” là tình tiết định tội. Nay, BLHS năm 2015 quy định tình tiết “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” là tình tiết định tội của tội gây rối trật tự công cộng, đây là quy định hoàn toàn mới. So sánh giữa hai tình tiết này, chúng ta thấy tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng” của tội gây rối trật tự công cộng trong BLHS năm 1999 nó bao hàm cả yếu tố hậu quả về vật chất và hậu quả phi vật chất. Còn tình tiết “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” trong BLHS năm 2015 dường như chỉ có hậu quả về phi vật chất. Có ý kiến cho rằng, vậy “gây hậu quả nghiêm trọng” trong BLHS năm 1999 và “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” BLHS năm 2015 thì tình tiết nào được coi là nặng hơn, tình tiết nào được coi là nhẹ hơn để áp dụng nguyên tắc có lợi khi chúng ta xử lý tội phạm này xảy ra trước ngày BLHS năm 2015 có hiệu lực thi hành?
Về tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng” trong BLHS năm 1999, tại tiểu mục 5.1 Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng thẩm phán
5.1. Hành vi gây rối trật tự công cộng mà để hậu quả xảy ra thuộc một trong các trường hợp sau đây bị coi là “gây hậu quả nghiêm trọng” và phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 245 BLHS:
a. Cản trở, ách tắc giao thông đến dưới 2 giờ;
b. Cản trở sự hoạt động bình thường của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân;
c. Thiệt hại về tài sản có giá trị từ mười triệu đồng trở lên;
d. Chết người;
đ. Người khác bị thương tích hoặc bị tổn hại sức khoẻ với tỷ lệ thương tật từ 31 % trở lên;
e. Nhiều người bị thương tích hoặc bị tổn hại sức khoẻ với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 41% trở lên;
f. Người khác bị thương tích hoặc bị tổn hại sức khoẻ với tỷ lệ thương tật từ 21% đến 30% và còn thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm triệu đồng trở lên;
g. Nhiều người bị thương tích hoặc bị tổn hại sức khoẻ với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 30% đến 40% và còn thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm triệu đồng trở lên.
Như vậy, tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng” trong BLHS năm 1999 đã được hướng dẫn và được áp dụng trong thực tiễn, không có vướng mắc bất cập gì. Còn đối với tình tiết “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” trong BLHS năm 2015 đến nay chưa có văn bản hướng dẫn áp dụng thi hành gây nhiều vướng mắc, bất cập trong việc đấu tranh xử lý các đối tượng có hành vi gây rối trật tự công cộng. Thực tế có vụ án, hai nhóm đối tượng có hành vi mang theo hung khí, khi gặp nhau trên đường phố đã có hành vi đuổi đánh nhau, trong lúc đuổi đánh nhau đã dùng hung khí đập làm hư hỏng các xe mô tô, kết luận định giá tài sản trị giá 20 triệu đồng. Tài liệu, chứng cứ không xác định được đối tượng nào đã trực tiếp đập phá xe mô tô nên không đủ căn cứ để khởi tố bị can về tội cố ý làm hư hỏng tài sản. Tuy nhiên, đã đủ căn cứ xác định các đối tượng có hành vi đuổi, đánh nhau gây mất trật tự trên đường phố. Theo Nghị quyết 02/2003 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì hành vi của các đối tượng đã gây hậu quả nghiêm trọng vì đã gây “Thiệt hại về tài sản có giá trị từ mười triệu đồng trở lên”. Tuy nhiên, hậu quả này không được coi là “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” để khởi tố về tội gây rối trật tự công cộng theo Điều 318 BLHS năm 2015.
Theo quan điểm của tác giả, tình tiết “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” là mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra, là hậu quả phi vật chất. Tại tiểu mục 5.1 Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã quy định: “Ngoài các hậu quả xảy ra về tính mạng, sức khoẻ và tài sản được hướng dẫn trên đây, thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất như có ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, ngoại giao, đến trật tự, an toàn xã hội..” Như vậy, theo quy định tại Nghị quyết số 02/2003 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, thì tình tiết “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” đã được hướng dẫn, nó có tính chất, mức độ như “hậu quả nghiêm trọng” hay nói cách khác “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” chính là “gây hậu quả nghiêm trọng”.
Đến nay chưa có văn bản nào bãi bỏ Nghị quyết số 02/2003 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, vì vậy chúng ta vẫn áp dụng tiểu mục 5.1 của Nghị quyết 02/2003 hướng dẫn về tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng”, quy định tại Điều 245 BLHS năm 1999 để giải quyết các vụ án gây rối trật tự công cộng với tình tiết “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” quy định tại Điều 318 BLHS năm 2015. Tuy nhiên đây chỉ là ý kiến cá nhân của tác giả, thiết nghĩ liên ngành Tư pháp Trung ương cần có văn bản hướng dẫn rõ, cụ thể tình tiết “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” quy định tại Điều 318 BLHS năm 2015 để các cơ quan tư pháp áp dụng thống nhất trong thực tiễn.