Gây thiệt hại cho công ty, người lao động phải bồi thường thế nào? Người lao động làm mất, hư hỏng, thất thoát tài sản của người sử dụng lao động phải bồi thường thế nào?
Trường hợp người lao động vi phạm các quy định về an toàn cho công ty, gây thiệt hại cho Công ty rất nhiều. Gây thiệt hại cho công ty, người lao động phải bồi thường thế nào? Có trường hợp ngoại lệ miễn trách nhiệm bồi thường khi có thiệt hại xảy ra tại Công ty hay không?
Mục lục bài viết
1. Căn cứ áp dụng trách nhiệm bồi thường
Trách nhiệm bồi thường vật chất là trách nhiệm pháp lý mà người sử dụng lao động áp dụng đối với người lao động bằng cách buộc người lao động phải bồi thường những thiệt hại về vật chất do hành vi vi phạm kỷ luật lao động, vi phạm hợp đồng gây ra. việc bồi thưởng thiệt hại trong quan hệ lao động có những đặc điểm sau:
– Chỉ được áp dụng đối với quan một bên quan hệ lao động. Là người lao động làm công hưởng lương trên cơ sở
– Chỉ áp dụng trong trường hợp người lao động thực hiện quyền và nghĩa vụ lao động mà có hành vi vi phạm các quy định của
– Tài sản, vật chất bị thiệt hại ((hư hỏng, mất) phải là tài sản của người sử dụng lao động giao cho người lao động quản lý, bảo quản… để thực hiện nghĩa vụ lao động.
Căn cứ để xử lý bồi thường thiệt hại là những yếu tố cần mà người sử dụng lao động căn cứ vào đó buộc người lao động có hành vi vi phạm gây thiệt hại về tài sản phải bồi thường. Người sử dụng lao động phải căn cứ vào các yếu tố sau:
Thứ nhất, hành vi vi phạm kỷ luật lao động: là hành vi vi phạm của người lao động vi phạm các quy định trong
Bởi nếu người lao động không có hành vi vi phạm quy định trong nội quy lao động thì người sử dụng lao động không có quyền yêu cầu người lao động bồi thường thiệt hại vật chất theo quy định của pháp luật lao động. Như vậy, chỉ khi người lao động có hành vi vi phạm kỷ luật lao động gây thiệt hại về tài sản cho người lao động thì mới áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại vật chất. Trường hợp giữa các bên có hợp đồng trách nhiệm thì sự vi phạm thỏa thuận trong hợp đồng trách nhiệm gây thiệt hại về tài sản cho người sử dụng lao động cũng là căn cứ để bồi thường.
Thứ hai, có thiệt hại về tài sản cho người sử dụng lao động: bởi mục đích cơ bản của việc bồi thường thiệt hại là nhằm khôi phục lại tình trạng tài sản cho người sử dụng lao động. Nên trong trường hợp người lao động có hành vi vi phạm kỷ luật, nhưng không gây thiệt hại về tài sản thì về nguyên tắc họ không phải bồi thường mà chỉ bị xử lý kỷ luật lao động. Thiệt hại được hiểu là những biến đổi theo chiều hướng xấu đi trong tái sản thể hiện những tổn thất thực tế tính được bằng tiền.
Thứ ba, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm kỷ luật lao động và thiệt hại tài sản: theo quy định của Luật lao động chỉ khi người sử dụng chứng minh được thiệt hại về tài sản xảy ra do hành vi của người lao động gây ra và hành vi vi phạm kỷ luật đó là nguyên nhân, còn sự thiệt hại về tài sản của người sử dụng lao động là hậu quả tất yếu thì người lao động mới phải bồi thường. Nếu hành vi vi phạm kỷ luật lao động và thiệt hại xảy ra không có mối quan hệ nhân quả này thì người lao động không phải bồi thường.
Thứ tư, lỗi của người vi phạm: đây là căn cứ quan trọng để buộc người lao động phải bồi thường thiệt hại về vật chất. Xét về mặt nội dung thì người lao động có lỗi nếu hành vi vi phạm kỷ luật lao động gây thiệt hại về tài sản cho người sử dụng lao động là kết quả của sự lựa chọn của người lao động trong khi họ có đầy đủ các điều kiện khách quan và chủ quan để thực hiện đúng nghĩa vụ lao động của mình. Xét về mặt hình thức, lỗi là trạng thái tâm lý của người lao động có hành vi vi phạm kỷ luật gây ra về tài sản của người sử dụng lao động.
Lỗi bao gồm: lỗi cố ý và lỗi vô ý. Theo quy định của pháp luật hiện nay thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại phụ thuộc vào tình trạng tài sản (hư hỏng hay mất) áp dụng cả với lỗi cố ý hay vô ý. Bên cạnh đó, khi xem xét yếu tố lỗi cần phải xác định lỗi đó ở hình thức nào, vô ý hay cố ý, lỗi vô ý nhưng mức thiệt hại là bảo nhiêu là rất quan trọng và cần thiết để từ đó người sử dụng lao động áp dụng việc bồi thường thiệt hại phù hợp.
Người lao động không phải bồi thường thiệt hại về vật chất cho người sử dụng lao động khi họ vi phạm kỷ luật lao động gây thiệt hại nhưng không bị coi là có lỗi do bị mất năng lực hành vi hoặc sự kiện bất khả kháng.
Ngoài bốn căn cứ nêu trên, để giúp cho việc bồi thường thiệt hại này được chính xác, hiệu quả, cũng như tính đến điều kiện thực tế của người lao động, người sử dụng lao động còn phải xem xét các yếu tố khác như: khả năng, kinh nghiệm làm việc, hoàn cảnh gia đình, tài sản cũng như ý thức kỷ luật, thái độ của người lao động, trước, trong và sau khi vi phạm.
2. Mức bồi thường và cách thức thực hiện bồi thường thiệt hại
2.1. Người lao động làm hư hỏng tài sản của người sử dụng lao động
Căn cứ Khoản 1 Điều 129
1. Người lao động làm hư hỏng dụng cụ, thiết bị hoặc có hành vi khác gây thiệt hại tài sản của người sử dụng lao động thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật hoặc nội quy lao động của người sử dụng lao động.
Trường hợp người lao động gây thiệt hại không nghiêm trọng do sơ suất với giá trị không quá 10 tháng lương tối thiểu vùng do Chính phủ công bố được áp dụng tại nơi người lao động làm việc thì người lao động phải bồi thường nhiều nhất là 03 tháng tiền lương và bị khấu trừ hằng tháng vào lương theo quy định tại khoản 3 Điều 102 của Bộ luật này.
…
Mức khấu trừ tiền lương hằng tháng không được quá 30% tiền lương thực trả hằng tháng của người lao động sau khi trích nộp các khoản bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, thuế thu nhập cá nhân.”
Mức lương tối thiếu vùng hiện nay theo quy định tại
“1. Quy định mức lương tối thiểu vùng áp dụng đối với người lao động làm việc ở doanh nghiệp như sau:
a) Mức 4.420.000 đồng/tháng, áp dụng đối với doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn thuộc vùng I.
b) Mức 3.920.000 đồng/tháng, áp dụng đối với doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn thuộc vùng II.
c) Mức 3.430.000 đồng/tháng, áp dụng đối với doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn thuộc vùng III.
d) Mức 3.070.000 đồng/tháng, áp dụng đối với doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn thuộc vùng IV.”
2.2. Người lao động làm mất tài sản của người sử dụng lao động
Căn cứ vào khoản 2 Điều 129
“2. Người lao động làm mất dụng cụ, thiết bị, tài sản của người sử dụng lao động hoặc tài sản khác do người sử dụng lao động giao hoặc tiêu hao vật tư quá định mức cho phép thì phải bồi thường thiệt hại một phần hoặc toàn bộ theo thời giá thị trường hoặc nội quy lao động; trường hợp có hợp đồng trách nhiệm thì phải bồi thường theo hợp đồng trách nhiệm; trường hợp do thiên tai, hỏa hoạn, địch họa, dịch bệnh nguy hiểm, thảm họa, sự kiện xảy ra khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép thì không phải bồi thường.”
Đối với trường hợp này pháp luật không quy định cụ thể mức và cách thức thực hiện bồi thường mà trao quyền để người sử dụng lao động tự quyết định việc bồi thường một phần hay toàn bộ thiệt hại theo giá trị thị trường và cố quy định trước trong nội quy lao động.
Đồng thời, để đảm bảo quyền tự định đoạt của các bên, pháp luật cũng thừa nhận trường hợp bồi thường theo hợp đồng trách nhiệm. Quy định bồi thường thiệt hại dựa trên cơ sở thỏa thuận của các bên hoặc trên cơ sở nội quy quy định giúp cho người sử dụng lao động xử lý việc bồi thường một cách linh hoạt, phù hợp với điều kiện thực tế của mình. Điều đó thể hiện sự bảo hộ của Nhà nước nhằm không để ảnh hưởng đến quyền tự do kinh doanh của người sử dụng lao động đồng thời nâng cao tinh thần trách nhiệm của người lao động đối với tài sản được giao giữ, bảo quản, tránh lạm dụng để trộm cắp, tham ô tài sản mà trong nhiều trường hợp người sử dụng lao động không thể kiểm soát được.