Đưa tiền cho bạn nhờ mua hộ xe có đòi lại được không? Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Tóm tắt câu hỏi:
Xin Luật sư tư vấn cho tôi có đưa tiền cho 1 người bạn để nhờ mua xe với giá trị tiền nhận hơn 60 triệu đồng và đã qua ngày hẹn người bạn này không hoàn trả xe cũng như tiền, trước đó người này đã viết giấy biên nhận và có người làm chứng cùng ký vào đó, vậy tôi xin hỏi giấy biên nhận này có giá trị pháp lý không và tôi nên trình báo ở đâu? tôi ở Phú Thọ, bạn tôi ở Hà Nội, tôi xin chân thành cảm ơn!
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
1. Căn cứ pháp lý:
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự 2015
2. Nội dung tư vấn:
Dựa trên thông tin bạn cung cấp thì bạn có đưa tiền cho một người bạn để nhờ người bạn đó mua xe hộ với số tiền hơn 60 triệu đồng. Đã qua ngày hẹn mà người bạn này vẫn không hoàn trả xe, hay tiền cho bạn mặc dù trong giấy biên nhận do người đó viết đã ghi rõ. Giấy biên nhận có đầy đủ chữ ký của người này cùng người làm chứng.
Xem xét trong trường hợp của bạn, bạn đưa tiền để nhờ một người bạn mua xe cho mình, mặc dù giữa hai bên không ký kết hợp đồng ủy quyền, tuy nhiên khi nội dung trong Giấy biên nhận thể hiện rõ việc người bạn của bạn nhận số tiền của bạn để thực hiện công việc mua xe thì trong trường hợp này, quan hệ giữa bạn và người bạn kia mang bản chất của một hợp đồng ủy quyền. Bởi căn cứ theo quy định tại Điều 562
“Điều 562. Hợp đồng ủy quyền
Hợp đồng ủy quyền là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên được ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên ủy quyền, bên ủy quyền chỉ phải trả thù lao nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.
Điều 563. Thời hạn ủy quyền
Thời hạn ủy quyền do các bên thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định; nếu không có thỏa thuận và pháp luật không có quy định thì hợp đồng ủy quyền có hiệu lực 01 năm, kể từ ngày xác lập việc ủy quyền.”
Trong trường hợp của bạn, theo thỏa thuận người bạn kia thực hiện việc sử dụng số tiền mà bạn đưa để mua xe cho bạn trong một thời gian nhất định. Thỏa thuận này thể hiện sự ủy quyền của bạn cho người bạn đó để thay mặt mình thực hiện việc mua xe. Trong trường hợp này, khi hết thời hạn ủy quyền mà người bạn của bạn không trả lại tiền, hay chiếc xe cho bạn thì căn cứ theo quy định tại Điều 565 Bộ luật dân sự năm 2015, người bạn của bạn đã vi phạm thỏa thuận của hai bên, đã không thực hiện công việc theo ủy quyền, cũng không giao lại cho bên ủy quyền (ở đây là bạn) tài sản đã nhận hay những lợi ích thu được trong khi thực hiện việc ủy quyền theo thỏa thuận, hay theo quy định của pháp luật.
Trong trường hợp này, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình, bạn cần yêu cầu người bạn trả lại tiền hoặc trả lại xe cho bạn. Trường hợp người bạn này không trả lại tài sản cho bạn thì bạn có quyền khởi kiện lên Tòa án nhân dân cấp quận huyện nơi người đó cư trú để đòi lại tài sản của mình. Khi thực hiện việc khởi kiện, giấy biên nhận có chữ ký của người bạn đó là một trong những nguồn chứng cứ quan trọng để xác định quan hệ giữa bạn và người bạn đó.
Trường hợp, người bạn của bạn không chỉ có hành vi không trả lại tiền, cũng không trả lại xe, mà còn có hành vi dùng những thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản, hay mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả, như có hành vi trốn tránh, bỏ trốn khỏi nơi cư trú, ngăn chặn mọi liên lạc từ bạn…, hoặc sử dụng tài sản đó (tiền hoặc chiếc xe đã mua) vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản như đánh bạc, cầm cố… Trường hợp này, người bạn của bạn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 175
“Điều 175. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;
b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
…”
Căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bởi khoản 35 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự 2015, thì trong trường hợp của bạn, với số tiền chiếm đoạt là 60 triệu đồng, người bạn của bạn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với khung hình phạt từ 02 năm đến 07 năm tù. Trường hợp này, khi nhận thấy những dấu hiệu của tội phạm bạn cần thu thập các bằng chứng, và thực hiện trình báo lên cơ quan công an để được can thiệp giải quyết.
Như vậy, tùy vào từng trường hợp mà bạn có thể căn cứ vào tình hình thực tế để có thể áp dụng những biện pháp phù hợp để đòi lại tài sản từ người bạn của mình.