Bài viết đóng vai vua Quang Trung kể lại Hoàng Lê nhất thống chí gồm 3 mẫu, giúp các em học sinh lớp 9 tham khảo, nhập vai vua Quang Trung kể lại tác phẩm thật cô đọng, súc tích để lại nhiều ấn tượng sâu đậm trong lòng mọi người.
Mục lục bài viết
1. Dàn ý Đóng vai Quang Trung kể lại Hoàng Lê nhất thống chí:
Mở bài:
Khi hay tin quân Thanh đóng ở Thăng Long, lòng rất căm giận vì có ý dấy binh, nhưng tướng khuyên đợi yên dân rồi hãy lập quân vẫn chưa quá muộn. Ngày 25 tháng 12, ta lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung.
Thân bài:
Vừa lên ngôi, lập tức truyền kế đánh quân Thanh, tổ chức duyệt binh, động viên quân sĩ, tăng thêm quyết tâm chống giặc. Để hành quân nhanh chóng, giữ sức và ổn định binh lực trong mấy ngày, chúng tôi nảy ra ý kiến rằng vũ khí, lương thực và những vật dụng cần thiết ai cũng phải mang theo, nhưng đồ đạc thì nên gói ghém. Ta rất hài lòng vì chưa bao giờ đánh nhau mà lại nhanh, gọn và hoàn hảo đến vậy. Đi đến đâu dân làng cũng đón tiếp nồng hậu, cung cấp lương thực rất nhiều, nhưng theo lệnh của ta, bộ đội chỉ lấy những gì cần thiết và trả lại cho đồng bào những gì họ không cần, nên binh sĩ hành quân suốt ngày đêm, nhưng tâm trí của họ và sức khỏe của họ vẫn ổn định.
Vào đến Nghệ An, ta cho mọi người nghỉ ngơi 10 ngày rồi lại mở cuộc duyệt binh tại đây. Vì vậy, chẳng bao lâu quân đội đã tăng số lượng binh lính cần thiết và ta đã chỉ huy quân đội tiến thẳng về phía Bắc. Trước tiên, ta yêu cầu tiêu diệt một nhóm gián điệp ở sông Giáng. Rồi ngày mồng 3 tháng giêng, ta cho binh đánh Hà Hồi. Mưu kế làm địch hoang mang, ta cho quân bao vây thành, phát loa phóng thanh, đốt lửa, mang xoong nồi ra tạo tiếng động lớn. Vì sợ không biết ở bên ngoài có bao nhiêu người nên lính trong thành liền bị bất ngờ nên đã đầu hàng xin được tha thứ. Ta nghĩ điều đó quả là đúng, tôi hẳn sẽ chiếm được thành phố mà không cần một mũi tên nào.
Thừa thắng, ta lập tức tiến công đồn Ngọc Hồi vào ngày 5 tháng giêng, vì đây là cứ điểm quan trọng để, có thể địch sẽ liều mạng với ta ngay giữa thành. Thế là ta cho xếp rơm thành từng lớp, cử người người khỏe mạnh mỗi người một tấm, mỗi người cầm trên tay một con dao ngắn, dàn trận theo chữ “nhất” 20 người khác cầm binh khí. Để tăng thêm dũng khí cho quân, tôi tự mình quấn một chiếc khăn vàng vào cổ để thể hiện quyết tâm chiến thắng. Lên lưng voi, ta cho quân vào, quân Thanh thấy không địch nổi nên hoảng sợ bỏ chạy. Sầm Nghi Đống thắt cổ tự tử. Xác địch chồng chất trên đồi.
Buổi trưa quân đến đồn Thăng Long, vì khi nghe tin quân ta tiến vào, lúc đó còn say quá nên Tôn Sĩ Nghị chưa kịp mặc áo giáp đã lên ngựa chạy qua cầu phao lúc nào không hay. Nghe tin, giặc hoảng sợ, điên cuồng chạy qua cầu làm cầu sập, xác người nằm la liệt, sông Nhị Hà bị tắc nghẽn. Kết thúc cuộc chiến, quân ta đại thắng, quân Thanh đại bại hoàn toàn.
Kết bài:
Ta vui mừng nên mở tiệc chiêu đãi quân binh, vì đã báo thù cho nước nhà. Sự căm thù mà ta đã phải chịu đựng trong suốt thời gian qua. Kể từ đó, đất nước được thanh bình, người dân trở lại lao động sản xuất và sống một cuộc sống yên bình.
2. Đóng vai Quang Trung kể lại Hoàng Lê nhất thống chí hay nhất:
Năm ấy kéo quân ra bắc bắt Vũ Văn Nhậm, nhưng do thanh thế thành Tây Sơn, ta buộc phải rút lui quân. Lê Chiêu Thống hèn nhát đến triều đình Mãn Thanh cầu cứu. Giặc Thanh chỉ chờ có thế, đồng loạt ồ ạt xông vào, chớp thời cơ thôn tính nước ta. Ta đã rất tức giận khi biết tin. Nhưng lúc bấy giờ lòng dân chưa yên, thế nước bất an, ta bất đắc dĩ phải lên ngôi để yên dân, phát động nghĩa quân đánh giặc.
Ngày 25 tháng Chạp, ta lên ngôi hoàng đế trước mặt ba đạo quân, sau đó ta chỉnh đốn quân binh và tiến quân lên phía bắc. Ngày 29 ta hội quân ở Nghệ An. Ở đây ta hỏi ý kiến của ẩn sỉ lừng danh Nguyễn Thiếp để lên kế hoạch tấn công tiếp theo. Mọi việc xong xuôi, ta mở cuộc duyệt binh, an ủi và mời các binh sĩ cùng nhau chống giặc ngoại xâm và dự tiệc giao nhận quân. Tối ngày 30 ta cho quân chuẩn bị lên đường đánh đồn Thăng Long vì đây là lúc địch chủ quan nhất. Ta đã hứa với các tướng rằng quân ta sẽ chiếm được pháo đài này và ăn mừng chiến thắng vào ngày mồng 7 tháng giêng.
Khi quân của ta đến sông Giáng, hàng phòng thủ của giặc bị phá vỡ. Tất cả quân Thanh do thám ở đó đều bị bắt sống. Đêm mồng 3 tháng giêng ta cho quân đánh thành Hà Hồi. Hà Hồi là một pháo đài ở biên giới, binh lính tập trung không nhiều. Biết địch sơ hở, hoang mang, ta ra lệnh cho quân bao vây toàn bộ thị xã, bắc loa gọi vào nhằm mục đích làm rối loạn đội hình địch. Đến nửa đêm, quân giặc nghe tiếng chiêng trống vang trời cộng thêm khói mù mịt khiến chúng hoảng sợ xin hàng ngay. Quân ta tịch thu toàn bộ lương thực và vũ khí.
Mờ sáng mồng 5 tháng giêng, quân ta tiến đến đền Ngọc Hồi. Ngọc Hồi là nơi tập trung quan trọng của quân địch phòng thủ phía Nam đồn lũy, quân số rất đông. Nơi đây tập trung hỏa lực và cung tên rất mạnh. Biết vậy, ta sai binh lính ghép những tấm ván liền với nhau, phủ rơm kín và sấp nước lên trên, mười người mới nâng được một ván, dàn trận xếp thành chữ “nhất”. Điều này được thực hiện để giúp binh lính tránh đạn, tiến lên và tiếp cận dễ dàng để tiêu diệt pháo đài.
Đêm ấy, ta sai quân đánh, lợi dụng gió thổi quân Thanh, phun khói lửa làm rối loạn đội hình quân ta, nhân cơ hội đó mà giết. Nhưng đột nhiên thời tiết thay đổi, khói quay trở lại và chúng bị rơi vào thế bị động. Lập tức chúng bắn tên như mưa nhằm không cho ta chuẩn bị kịp thời. Bất chấp nguy hiểm, mọi đội tiên phong cầm những tấm ván này đều ẩn nấp và ra ngoài, dập tắt những mũi tên. Tên bắn đến đâu cũng bị thiêu tàn đến đấy. Quân Thanh hoảng sợ không định hướng được lực lượng của ta.
Khi đó, ta cho quân leo thang vượt đồn, đánh chiếm đền Ngọc Hồi. Quân địch náo loạn, giẫm đạp nhau mà chết. Ngay cả Sầm Nghi Đống cũng phải treo cổ tự tử. Đoán trước quân Thanh sẽ tìm đường tháo chạy, ta cho quân rút chạy theo đập Uyên Duyên tiến về phía đông đánh chiếm. Quân Thanh lại tìm được lối thoát ở đường Vĩnh Kiều, ta kéo quân xuống đầm Mực, cho voi chiến giẫm lên, giặc chết nhiều như ngả rạ.
Ta tiếp tục đến trưa hôm sau, đưa quân đến đồn Thanh Long. Tôn Sĩ Nghị đang dự tiệc vui chơi, nghe tin thất kinh, hận không thể khoác giáp lên ngựa mà vội vàng chạy về nước. Binh sĩ hoang mang, giẫm đạp nhau chết cho đến khi cầu hỏng, sập. Vì vậy, sông Nhị Hà bị chặn, Lê Chiêu Thống chạy trốn sang Trung Quốc.
Ta mừng lắm khi trả được nợ nước, rửa sạch kiếp nô lệ, đưa quân về kinh thành Thăng Long mừng chiến thắng. Hơn nữa, hôm đó là mùng 5 Tết Đinh Dậu.
3. Hãy vào vai Vua Quang Trung kể lại Hoàng Lê nhất thống chí:
Năm 1789, nghe tin quân Thanh vào Thăng Long, ta rất tức giận. Lúc bấy giờ ta định điều binh lên phía bắc truy kích ngay. Nhưng nếu lòng dân chưa thể yên, đành đợi ta lên ngôi hoàng đế rồi hạ lệnh xuất quân đánh giặc cũng không muộn.
Vừa lên ngôi, ta đã tự mình “đốc suất đại binh”, cả quân đội lên đường. 10 vạn quân tinh nhuệ được triệu về Nghệ An để thực hiện mục tiêu của đất nước. Đến Thuận Hóa, Quảng Nam, ta mở cuộc duyệt binh, động viên khích lệ binh sĩ, lệnh cho quân binh ăn Tết sớm, chuẩn bị hành quân ngày 30 Tết, mùng 7 tháng Giêng vào Thăng Long ăn mừng. Cả đoàn quân đều tuân theo mệnh lệnh và tiếp tục lên đường. Khi quân ta đến sông Gián, nghĩa binh trấn thủ phòng ngự chạy tán loạn. Đến sông Thanh Quyết, thấy quân ta mạnh, quân Thanh “quay đuôi” bỏ chạy, ta liền cho quân truy kích không để một ai chạy thoát, không để quân Hà Hồi và Ngọc Hồi hay biết.
Đêm mồng 3 tháng giêng năm Đinh Dậu, quân ta bí mật bao vây làng Hà Hồi, quân hò hét rất vang dội, tưởng như có hơn mấy nghìn người ở đó. Quân Thanh trong làng sợ hãi nên lập tức đầu hàng. Ngày mồng 5, quân ta áp sát đồn Ngọc Hồi trong đêm tối, từng tốp lính với ván bảo vệ, lưng đeo dao ngắn, sẵn sàng chiến đấu. Quân Thanh nổ súng bắn không trúng ai, tìm đủ mọi cách mà không được, đành bất lực nhìn quân ta tiến dần vào đồn.
Vừa gặp giặc, quân ta lập tức vứt bè, rút hết vũ khí. Quân Thanh thất thủ, hỗn loạn tháo chạy, giẫm đạp nhau mà chết, xác quân Thanh vương vãi khắp nơi, Sầm Nghi Đống không chạy kịp thắt cổ tự tử. Quân Thanh tháo chạy theo đường Vĩnh Kiều, quân địch chạy vào đầm Mực bị hàng vạn voi giày xéo. Thừa thắng xông lên, quân Tây Sơn của ta tiến đến gần thành Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị đang dự tiệc, nghe tin sợ mất mật, chưa kịp mặc giáp, lên ngựa ngay và vội vã trốn về nước. Lính bỏ chạy giẫm đạp nhau chết, khi qua cầu thì cầu sập, lính chết như ngả rạ, sông Nhị Hà bị chặn không chảy được. Quân Thanh đại bại.
Chỉ trong năm ngày đêm, ta đã thu phục được bờ cõi, đánh đuổi hoàn toàn quân xâm lược. Là một vị vua, ta đã làm tròn bổn phận mang lại hòa bình và độc lập cho đất nước sau hơn 5 năm nội chiến.
Khi viết những dòng hồi ký này, ta nhớ lại những kỷ niệm một thời cùng lính Tây Sơn cùng sống chết để đẩy lùi quân Thanh vào lãnh thổ của mình. Bây giờ đất nước đã ổn định và thịnh vượng, ta cũng ở đó để gặp gỡ tổ tiên đã khuất để lưu hương cho đời sau.