Quy định về đối tượng tạm giam. Quy định về căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam.
Mục lục bài viết
1. Quy định về đối tượng tạm giam:
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất so với các loại biện pháp ngăn chặn khác được quy định trong BLTTHS. Do đó, pháp luật quy định một số chủ thể mới có thể bị áp dụng biện pháp ngăn chặn này và được quy định cụ thể tại Điều 119 của BLTTHS. Cụ thể:
Thứ nhất, tạm giam chỉ có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo là thể nhân. Là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất, tạm giam chỉ có thể áp dụng đối với người đã bị cơ quan có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm đã thực hiện. Đó là người đã bị khởi tố bị can và quyết định khởi tố đã được Viện kiểm sát phê chuẩn hoặc là người đã bị Viện kiểm sát truy tố ra trước Toà án và đã được
Thứ hai, biện pháp ngăn chặn tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng. Để áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam trong trường hợp này, đòi hỏi phải thỏa mãn hai điều kiện cần và đủ sau:
– Phải là bị can, bị cáo. Bị can là người bị khởi tố về hình sự. Còn bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử.
– Những bị can, bị cáo đó thực hiện những hành vi phạm tội được quy định trong BLHS là tội đặc biệt nghiêm trọng (mức cao nhất của khung hình phạt là trên 15 năm tù, chung thân, tử hình) hoặc tội rất nghiêm trọng (mức cao nhất của khung hình phạt là trên 7 năm tù đến 15 năm tù).
Thỏa mãn hai điều kiện trên mới có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam. Xuất phát từ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà pháp luật đưa ra hình thức ngăn chặn đối với người thực hiện hành vi đó.
Thứ ba, biện pháp ngăn chặn tạm giam được áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên 02 năm và khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp sau:
Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm. Trong trường hợp bị can, bị cáo đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác như: Cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm … nhưng sau khi áp dụng một trong các biện pháp ngăn chặn trên, người bị áp dụng vẫn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội khác hoặc vi phạm các quy định theo biện pháp ngăn chặn mà họ đã được áp dụng. Khi đó, mặc dù các bị cáo, bị can phạm tội nghiêm trọng, ít nghiêm trọng họ vẫn có thể bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam.
Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can. Nơi cư trú và lý lịch bị can được thể hiện trong lý lịch bị can. Khi tiến hành xác minh, lập lý lịch bị can đối với những trường hợp lý lịch không xác định, bị cáo thường xuyên thay đổi chỗ ở, không có nơi ở ổn định. Trong trường hợp này, để đảm bảo công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với những bị can bị cáo đó là cần thiết.
Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn.
Đây là trường hợp mà bản thân bị can, bị cáo không có ý thức tuân thủ pháp luật, cố tính trốn tránh, có thái độ không hợp tác gây khó khăn trong công tác điều tra, truy tố cũng như xét xử.
– Đối với những bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội. Tương tự các trường hợp trên, trường hợp này bị can, bị cáo đã tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội. Điều này chứng tỏ biện pháp ngăn chặn đang áp dụng không có hiệu quả ngăn ngừa tội phạm đối với họ. Do vậy cần áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với những trường hợp này để đảm bảo bị cáo không tiếp tục phạm tội hoặc ngăn chặn hành vi tiếp tục phạm tội của bị can, bị cáo.
– Đối với những bị can, bị cáo có hành vi cản trở điều tra, truy tố, xét xử như mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
Như vậy, khi bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên 02 năm mà thuộc một trong bốn điều kiện trên, họ mới có thể bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam.
Đồng thời, xuất phát từ tính nhân đạo, nguyên tắc bảo vệ quyền con người trong pháp luật tố tụng hình sự nói chung và biện pháp ngăn chặn tạm giam nói riêng, BLTTHS cũng quy định loại trừ một số trường hợp, theo đó biện pháp ngăn chặn tạm giam không được áp dụng với họ. Đó là đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng. Mặc dù vậy, trong trường hợp nếu họ phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau thì vẫn có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam: a) Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã; b) Tiếp tục phạm tội; c) Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên đến quan vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này; d) Bị can, bị cáo về tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác định nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
Tóm lại, khi thỏa mãn đầy đủ các điều kiện cụ thể, những đối tượng được liệt kê ở trên có thể bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam theo quy định của BLTTHS năm 2015.
2. Quy định về căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam:
Hiện nay, BLTTHS chưa có điều luật riêng quy định về căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam. Do tạm giam là một trong những biện pháp ngăn chặn được quy định, cho nên căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam chỉ có thể được nhận thức bằng cách phân tích quy định về căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn nói chung. Theo đó việc áp dụng biện pháp ngăn chặn dựa trên một trong bốn căn cứ được quy định tại Điều 109 của BLTTHS năm 2015 như sau:
Một là, để kịp thời ngăn chặn tội phạm
Khi có hành vi chuẩn bị phạm tội hoặc hành vi phạm tội đang xảy ra xâm hại đến những quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ thì các cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm đấu tranh ngăn ngừa hành vi đó tiếp tục xảy ra, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác và để đảm bảo trật tự xã hội. Ở căn cứ này, một người có thể có hành vi chuẩn bị công cụ, phương tiện để thực hiện để phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng thì có thể bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam để ngăn chặn hành vi phạm tội của họ. Căn cứ này mang tính suy đoán, bởi lẽ hành vi phạm tội có thể chưa xảy ra trên thực tế. Do vậy, việc áp dụng biện pháp ngăn chặn dựa trên căn cứ này phải hết sức thận trọng, tránh tình trạng lạm dụng căn cứ trên để áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam một cách tùy tiện, ảnh hưởng đến quyền lợi của người bị áp dụng.
Hai là, khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử
Đây là căn cứ chỉ áp dụng sau khi người bị buộc tội đã thực hiện xong hành vi phạm tội. Sau khi thực hiện hành vi phạm tội, người bị buộc tội có thể bị áp dụng một trong nhiều biện pháp ngăn chặn, trong đó có biện pháp ngăn chặn tạm giam. Theo chúng tôi, khác với các biện pháp ngăn chặn khác, khi người bị áp dụng chỉ ở mức độ gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thì căn cứ này được áp dụng để tạm giam khi người bị buộc tội có những hành động cản trở công tác điều tra, truy tố, xét xử như: mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này (điểm đ khoản 2 Điều 119 BLTTHS).
Ba là, khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ tiếp tục phạm tội
Căn cứ này được thực hiện khi và chỉ khi một người đã thực hiện xong một hành vi phạm tội giống như căn cứ thứ hai và có căn cứ chứng tỏ họ chuẩn bị thực hiện hành vi phạm tội mới. Xuất phát từ mục đích của biện pháp ngăn chặn là để ngăn ngừa tội phạm, nên đây được xem là căn cứ để áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam nhằm ngăn cản người bị buộc tội thực hiện hành vi phạm tội mới. Cũng như căn cứ đầu tiên, căn cứ này cũng mang tính suy đoán, trên thực tế người bị buộc tội chưa thực hiện hành vi phạm tội mới, nhưng có căn cứ chứng tỏ nếu không áp dụng biện pháp ngăn chặn này, người bị buộc tội sẽ thực hiện hành vi phạm tội khác nên việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam là cần thiết. Tuy nhiên, căn cứ này khác với căn cứ đầu tiên ở chỗ: trong trường hợp này, người bị buộc tội đã thực hiện một số hành vi chuẩn bị phạm tội như chuẩn bị công cụ, phương tiện để phạm tội đặt biệt nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, nghiêm trọng hay ít nghiêm trọng đều có thể bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam.
Bốn là, để bảo đảm thi hành án
Thi hành án là giai đoạn cuối cùng trong các hoạt động tố tụng hình sự.
Đây là giai đoạn thực hiện bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, đưa bản án thị thị trên thực tế. Do vậy, nhằm đảm bảo bản án được thực thi một các triệt để, căn vào nhân thân và thái độ chấp hành pháp luật của từng người bị kết án, chẳng hạn có căn cứ chứng tỏ người bị kết án bỏ trốn, không có nơi cư trú rõ ràng hoặc bị cáo có nhân thân xấu, có tiền án, là đối tượng côn đồ… thì sau khi tuyên án, người bị kết án có thể bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam được áp dụng nhằm đảm bảo công tác thi hành án.
Ngoài ra, đối với người chưa đủ 18 tuổi, pháp luật tố tụng hình sự quy định riêng việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam như sau: Chỉ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi khi có căn cứ cho rằng việc áp dụng biện pháp giám sát và các biện pháp ngăn chặn khác không hiệu quả. [18, Điều 419]. Như vậy, đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi, ngoài các căn cứ nêu trên, nếu có căn cứ cho rằng đã áp dụng biện pháp giám sát và các biện pháp ngăn chặn khác không hiệu quả mới được áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với họ.