Trong giai đoạn hiện nay, việc đính hôn trở nên rất phổ biến. Sau một khoảng thời gian tìm hiểu nhau thì hai bên nam nữ thường sẽ quyết định đính hôn trước, sau đó thì mới dẫn đến một đám cưới chính thức. Vậy đính hôn có nghĩa là gì?
Mục lục bài viết
1. Đính hôn là gì?
Ta hiểu rằng, lễ đính hôn thực chất là đám hỏi trong văn hóa của người Việt Nam. Đính hôn được biết đến là một nghi lễ vô cùng quan trọng và sẽ cần phải có trong các đám cưới truyền thống.
Chúng ta cũng có thể hiểu một cách đơn giản thì lễ đính hôn chính là nghi lễ mà hai bên gia đình sẽ tổ chức để hứa gả con cái cho nhau, đây cũng được xem là một trong số những bước đệm quan trọng để hai bên sẽ có thể cùng nhau tiến tới lễ kết hôn. Ở Việt Nam, cũng tuỳ vào từng vùng miền, tập tục của từng địa phương cụ thể mà những yêu cầu về ngày lễ đính hôn này cũng có thể sẽ có những khác biệt so với nhau. Tuy nhiên, trên thực tế thì thông thường vào ngày hai bên đính hôn, nhà trai thường sẽ phải mang lễ vật qua nhà gái, sau đó nhà gái sẽ nhận lễ vật thay cho lời đồng ý gả con gái của mình cho chàng trai ấy. Và, trên thực tế, ta thấy được rằng, cũng kể từ lễ đính hôn, các cặp đôi cũng đã có thể coi nhau như vợ chồng sắp cưới.
Tại Việt Nam hiện nay, theo như truyền thống của cha ông từ bao đời này thì chúng ta cũng có thể hiểu đính hôn là lễ ăn hỏi trước. Lễ đính hôn được xem là một ghi thức không thể thiếu trong phong tục kết hôn của người Việt Nam.
Từ những phân tích được nêu trên, ta nhận thấy rằng, việc đính hôn chính là thể hiện sự hứa hẹn của hai bên gia đình. Đây cũng được xem là tiền đề của việc xây dựng cuộc sống hôn nhân sau này giữa hai người có ý định đi đến hôn nhân. Và ở mỗi nơi, mỗi vùng miền hay là ở mỗi dân tộc khác nhau thì cũng sẽ có cách tổ chức lễ đính hôn khác nhau để sao cho có thể phù hợp với phong tục; tập quán.
2. Đính hôn trong tiếng Anh là gì?
Đính hôn trong tiếng Anh là: engagement.
3. Đính hôn có phát sinh quan hệ hôn nhân không?
Câu hỏi được khá nhiều người thắc mắc là quan hệ hôn nhân có phát sinh sau khi cả hai đã đính hôn hay không. Theo quy định tại Khoản 1 điều 3
Bên cạnh đó thì tại Khoản 5 điều 3 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng đã đưa ra giải thích về kết hôn với nội dung cụ thể như sau: “Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật này về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn”.
Như vậy, ta nhận thấy rằng, căn cứ theo các quy định được nêu cụ thể trên thì giữa nam và nữ sẽ chỉ xác định quan hệ hôn nhân sau khi hai bên đã thực hiện việc đăng ký kết hôn; quan hệ hôn nhân giữa nam và nữ cũng chỉ được pháp luật bảo vệ khi phù với các quy định về hôn nhân gia đình. Cũng chính bởi vì nguyên nhân đó mà việc đính hôn trên thực tế cũng sẽ không làm phát sinh quan hệ hôn nhân. Việc đính hôn giữa nam và nữ thực chất sẽ chỉ là một phong tục được thực hiện để tạo niềm tin giữa hai bên gia đình.
Chúng ta nhận thấy rằng, dựa theo khoản 1 điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì hôn nhân được hiểu cơ bản là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn. Và kết hôn được hiểu cơ bản chính là việc nam, nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn.
Cũng chính bởi vì nguyên nhân đó mà ta thấy được rằng, sự khác biệt lớn nhất của đính hôn và kết hôn đó chính là việc đính hôn và kết hôn có làm phát sinh quan hệ hôn nhân không. Theo đó thì chỉ khi các cặp đôi tiến hành việc đăng ký kết hôn theo đúng quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì quan hệ hôn nhân của các bên đó mới được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Còn việc hai bên đính hôn với nhau cũng không đồng nghĩa với việc làm phát sinh quan hệ hôn nhân mà việc đính hôn sẽ chỉ là phong tục để nhằm mục đích có thể tạo niềm tin, gắn kết cho 2 bên.
Ta nhận thấy rằng, quan hệ hôn nhân sẽ chỉ thật sự phát sinh khi quan hệ hôn nhân đó đáp ứng các yêu cầu mà pháp luật hôn nhân gia đình đã đưa ra. Và khi các chủ thể đáp ứng các yêu cầu của pháp luật hôn nhân gia đình thì cuộc hôn nhân đó mới được pháp luật bảo vệ; thừa nhận. Khi đó thì hai bên nam nữ sẽ cần phải thực hiện đăng ký kết hôn đúng luật; cũng như hai bên nam nữ sẽ cần đảm đúng các yêu cầu theo quy định tại Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 với nội dung như sau:
– Về độ tuổi kết hôn để đảm bảo cho hôn nhân hợp pháp: Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên.
– Về sự tự nguyện để đảm bảo cho hôn nhân hợp pháp: Việc kết hôn sẽ cần phải do hai bên nam, nữ tự nguyện quyết định; hai bên đều không bị lừa dối, ép buộc.
– Nam nữ kết hôn đều không bị mất năng lực hành vi dân sự.
– Việc kết hôn giữa nam và nữ không thuộc vào các trường hợp cấm kết hôn, bao gồm các trường hợp cụ thể như sau: kết hôn giả tạo; cưỡng ép kết hôn; lừa dối kết hôn; người đang có vợ có chồng mà kết hôn với người khác; chưa có vợ có chồng mà kết hôn với người đang có vợ, có chồng; kết hôn giữa những người cùng dòng máu về trực hệ, có họ trong phạm vi 3 đời, giữa cha mẹ nuôi với con nuôi, giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng.
Nhằm mục đích để có thể tạo quan hệ hôn nhân hợp pháp, thì vào lúc hai bên đã đủ điều kiện được nêu cụ thể bên trên thì hãy thực hiện đăng ký kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Chỉ có như thế thì thì mối quan hệ hôn nhân mới phát sinh, và lúc đó đôi bên mới chính thức là vợ chồng của nhau.
5. Các bước để đảm bảo hôn nhân hợp pháp:
Các bước để đảm bảo hôn nhân hợp pháp bao gồm:
– Bước 1: Chuẩn bị giấy tờ theo đúng quy định của pháp luật:
Việc kết hôn ở trong nước sẽ cần phải chuẩn bị đầy đủ các loại giấy tờ, tài liệu sau đây:
+ Tờ khai đăng ký kết hôn theo mẫu được quy định sẵn.
+ Chứng minh nhân dân; hộ chiếu; thẻ Căn cước công dân hoặc giấy tờ khác có dán ảnh. Chúng ta cũng cần phải lưu ý, những loại giấy tờ này đều phải đang còn thời hạn sử dụng.
+
+ Quyết định; bản án ly hôn của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nếu trước đó đã từng kết hôn và ly hôn.
– Bước 2: Các chủ thể sẽ nộp hồ sơ tới cơ quan có thẩm quyền:
Sau khi các chủ thể đã chuẩn bị đầy đủ các loại giấy tờ được nêu trên; các cặp đôi cần đến Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú của một trong hai bên để thực hiện việc đăng ký kết hôn.
Bên cạnh đó, theo quy định của pháp luật, trong những trường hợp sau đây, nơi thực hiện việc đăng ký kết hôn là Uỷ ban nhân dân cấp huyện:
+ Công dân Việt Nam với người nước ngoài kết hôn thì phải đến Uỷ ban nhân dân cấp huyện.
+ Công dân Việt Nam cư trú ở trong nước với công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài kết hôn thì phải đến Uỷ ban nhân dân cấp huyện.
+ Công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài với nhau kết hôn thì phải đến Uỷ ban nhân dân cấp huyện.
+ Công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài với công dân Việt Nam hoặc với người nước ngoài kết hôn thì phải đến Uỷ ban nhân dân cấp huyện.
– Bước 3: Giải quyết đăng ký kết hôn:
Nếu như cơ quan có thẩm quyền thấy đủ điều kiện kết hôn; thì chủ thể là cán bộ tư pháp ghi việc kết hôn vào Sổ hộ tịch. Hai bên nam nữ sẽ thực hiện ký tên vào Sổ hộ tịch và Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn.
Bên cạnh đó thì hai bên nam, nữ cùng ký vào Sổ đăng ký kết hôn và Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn. Sau đó, chủ thể là cán bộ tư pháp báo cáo Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã trao Giấy chứng nhận kết hôn cho hai bên nam, nữ.
– Bước 4: Cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn:
Giấy chứng nhận kết hôn sẽ được cấp cho các cặp đôi ngay sau khi cán bộ tư pháp nhận được đầy đủ hồ sơ hợp lệ và xét thấy đủ điều kiện kết hôn theo quy định.
Cần lưu ý rằng trong trường hợp nếu cần xác minh thêm các điều kiện kết hôn của hai bên nam, nữ thì thời hạn cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật sẽ không quá 05 ngày làm việc.
Còn đối với trường hợp có yếu tố nước ngoài; việc trao giấy chứng nhận đăng ký kết hôn được thực hiện trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ký.
Còn trong 60 ngày kể từ ngày ký mà hai bên không thể có mặt để thực hiện việc nhận giấy chứng nhận đăng ký kết hôn thì Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn này sẽ bị hủy. Nếu hai bên vẫn muốn kết hôn thì hai bên sẽ cần phải thực hiện thủ tục lại từ đầu.
Căn cứ pháp lý sử dụng trong bài viết:
– Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
– Nghị định 123/2015/NĐ-CP