Bài viết này phân tích các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường theo quy định của pháp luật.
Điều kiện phát sinh trách nhiệm ngoài hợp đồng là những yếu tố, những cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường, người phải bồi thường, người được bồi thường và mức độ bồi thường. “Bộ luật dân sự 2015” không quy định đầy đủ các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Xuất phát từ những quy định, những nguyên tắc của pháp luật nói chung và luật dân sự nói riêng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có bốn điều kiện được quy định tại Nghị quyết 03/2006/HĐTP-TANDTC ngày 8/7/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
a. Có thiệt hại xảy ra
Thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây nên không chỉ bao gồm thiệt hại về tính mạng, sức khỏe và tài sản của con người mà còn bao gồm những tổn hại về thiên nhiên, môi trường. Cụ thể một số thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra như sau:
– Thiệt hại đối với môi trường tự nhiên hay thiệt hại đối với các giá trị sinh thái như: nguồn nước ô nhiễm các chất thải độc hại, số lượng động thực vật suy giảm, diện tích rừng bị thu hẹp …
– Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm như là tài sản bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng, thiệt hại gắn liền với việc thu hẹp hoặc mất những lợi ích gắn liền với việc không sử dụng, không khai thác hoặc bị hạn chế trong việc sử dụng, khai thá công dụng của tài sản; những chi phí để ngăn chặn và khắc phục thiệt hại.
– Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm chi phí hợp lí cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút; thu nhập thực tế của người bị thiệt hại và người chăm sóc người bị thiệt hại bị mất, bị giảm sút.
– Thiệt hại do tính mạng bị xâm hại bao gồm chi phí cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết; chi phí mai táng, tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng. Thiệt hại do tính mạng bị xâm hại có thể xảy ra khi có các sự cố môi trường như tràn dầu, nổ xăng dầu, cháy rừng…
– Thiệt hại về kinh tế hay thiệt hại về các lợi ích thương mại như doanh thu, lợi nhuận của doanh nghiệp sụt giảm khi nằm trong vùng ô nhiễm.
b. Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật bảo vệ môi trường:
Những hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường rất đa dạng, phong phú. Một số hành vi tương đối phổ biến như:
– Những hành vi vi phạm điều cấm của Luật bảo vệ môi trường 2005. Điều 7 Luật bảo vệ môi trường 2005 liệt kê 15 hành vi bị nghiêm cấm
– Vi phạm các quy định về đánh giá tác động môi trường hoặc các yêu cầu ghi tại phiếu thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường.
– Quy định các quy định về bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên như các quy định về bảo vệ rừng, khai thác, kinh doanh động vật, thực vật quý hiếm; bảo vệ nguồn đất, bảo vệ đất; vi phạm các quy định về đa dạng sinh học và bảo tồn thiên nhiên…
– Vi phạm các quy định về vệ sinh công cộng như quy định về vận chuyển và xử lí chất thải, rác thải; quy định về tiếng ồn, độ rung…
– Vi phạm các quy định về bảo quản và sử dụng các chất dễ gây ô nhiễm; vi phạm các quy định về phòng, chống sự cố môi trường trong tìm kiếm, thăm dò, khai thác, vận chuyển.
Tuy nhiên, không phải mọi hành vi gây thiệt hại cho môi trường đều là hành vi vi phạm pháp luật môi trường. Thiệt hại đối với môi trường có thể là do sự cố và hành vi bất cẩn trong sử dụng các phương tiện nguy hiểm cao độ và gây ra sự cố môi trường. Không phải bất cứ hành vi vi phạm pháp luật môi trường nào cũng phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Chỉ khi hậu quả của hành vi biểu hiện trên thực tế, gây hại đến hệ sinh thái, yếu tố môi trường và chủ thể khác thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại mới phát sinh.
>>> Luật sư
c. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại và thiệt hại xảy ra:
Thiệt hại thực tế xảy ra là kết quả của hành vi vi phạm pháp luật hay nói một cách khác, hành vi vi phạm pháp luật là nguyên nhân của thiệt hại xảy ra. Nhưng đối với các vụ việc bồi thường thiệt hại về môi trường thì việc xác định mối quan hệ trên không hề đơn giản. Một thiệt hại về môi trường có thể do hành vi gây ô nhiễm, suy thoái hoặc do yếu tố thiên nhiên. Nếu hai yếu tố này xảy ra đồng thời thì rất khó để xác định thiệt hại nào là do hành vi gây tổn hại đến môi trường. Hoặc trường hợp các hành vi gây thiệt hại tới môi trường đã xảy ra từ rất lâu, đến thời điểm thu thập chứng cứ thì thiệt hại không còn nghiêm trọng như mức độ ban đầu nên việc xác định nguyên nhân này ra là rất khó. Hoặc trường hợp một hành vi gây ra nhiều loại thiệt hại khác nhau và ở mức độ khác nhau. Đặc diểm nay về mặt lí luận đặt ra yêu cầu: Trong xác định thiệt hại và mối quan hệ trên, các quy định của pháp luật môi trường phải kết hợp tính chất pháp lí và tính chất kĩ thuật chuyên ngành. Bên cạnh đó, trong những trường hợp khó xác định được mối quan hệ nhân quả trên thì phải tìm ra được nguyên nhân trực tiếp nhất hoặc có tính quyết định nhất đối với thiệt hại xảy ra.
d. Lỗi của người gây thiệt hại:
Trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, trách nhiệm bổi thường thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi trường chỉ được loại trừ trong trường hợp ngườ bị thiệt hại có lỗi. Điều 628, “Bộ luật dân sự 2015” quy định:
“Cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác làm ô nhiễm môi trường gây thiệt hại,thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường, trừ người thiệt hại có lỗi”.
Hiểu cách khác nếu người bị thiệt hại không có lỗi thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại luôn đặt ra đối với người gây ô nhiễm môi trường gây thiệt hại. Điều này bắt nguồn từ quan điểm tôn trọng và bảo vệ triệt đẻ lợi ích của người bị thiệt hại trước sự xâm hại của người khác. Việc xác định lỗi rất quan trọng trong trường hợp có nhiều tổ chức cá nhân cùng gây thiệt hại nhằm mục đích xác định rõ hơn trách nhiệm của người gây ô nhiễm môi trường để xác định cơ chế bồi thường thỏa đáng giữa các bên.