Đề xuất ý kiến xây dựng chế định ly thân ở Việt Nam? Đề xuất nội dung các quy định về ly thân của pháp luật hôn nhân và gia đình tại Việt Nam?
Để xây dựng được chế định ly thân hoàn thiện, cần nghiên cứu, khảo sát thực tiễn có tính tổng quát, tham khảo pháp luật các quốc gia tiến bộ hoặc quốc gia có tình hình chính trị – kinh tế – xã hội tương tự như Việt Nam. Cần xây dựng chế định ly thân có tính dữ liệu, dự báo, bao quát thực tiễn và kỹ thuật lập pháp tiến bộ, phù hợp, thống nhất với tổng thể hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật dân sự nói riêng, tránh tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo giữa các ngành luật và giữa các chế định trong luật HNGĐ. Chế định ly thân trong Luật HNGĐ Việt Nam cần có những nội dung cơ bản sau:
Mục lục bài viết
1. Quyền yêu cầu ly thân:
Như tại Chương 1 đã phân tích, ly thân là quyền nhân thân của vợ chồng, do vậy, vợ chồng hoặc một bên vợ hoặc chồng có quyền yêu cầu ly thân mà không thể chuyển giao cho người khác. Điều này cũng phù hợp với quy định của đa số các nước có quy định về ly thân, đó là ghi nhận ly thân là quyền của vợ chồng (hoặc một bên vợ hoặc chồng) trong việc lựa chọn phương thức giải quyết mâu thuẫn trong hôn nhân. Như vậy, trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly thân được gọi là thuận tình ly thân, Tòa án xem xét và ra quyết định công nhận thuận tình ly thân cho vợ chồng, ngược lại, trường hợp chỉ một bên vợ hoặc chồng yêu cầu ly thân là đơn phương ly thân, Tòa án xét xử và ra bản án ly thân.
Đối với trường hợp vợ chồng thuận tình ly thân: Vợ chồng có thể quyết định ly thân bằng cách thức nộp đơn yêu cầu Tòa án công nhận thuận tình ly thân, hoặc cũng có thể không nộp đơn ra Tòa án. Nếu không muốn qua con đường tố tụng, vợ chồng cần lập văn bản có công chứng nêu rõ việc hai bên tự nguyện và mong muốn ly thân. Thời điểm có hiệu lực của việc ly thân là thời điểm do vợ chồng thỏa thuận và được ghi trong văn bản; nếu trong văn bản không xác định thời điểm có hiệu lực thì thời điểm có hiệu lực được tính từ ngày lập văn bản. Điều này đảm bảo tính riêng tư trong quan hệ vợ chồng, nhà nước không can thiệp vào quan hệ dân sự khi không có yêu cầu. Khi vợ chồng xảy ra mâu thuẫn (ví dụ khi vợ chồng không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ như thỏa thuận ban đầu) thì vẫn có thể khởi kiện ra Tòa án để yêu cầu giải quyết; tuy nhiên, trường hợp này vợ chồng phải có nghĩa vụ chứng minh vợ chồng đã ly thân trên thực tế.
Đối với trường hợp vợ hoặc chồng đơn phương ly thân: Xảy ra khi một bên muốn ly thân còn bên kia không muốn (hoặc không thể) ly thân.
Lúc này, giữa vợ và chồng không thể thỏa thuận được quyền và nghĩa vụ với nhau trong thời gian ly thân, xảy ra tranh chấp nên cần Tòa án đóng vai trò như “trọng tài” phân xử. Theo đó, chỉ xảy ra đơn phương ly thân khi vợ (chồng) khởi kiện vụ án ly thân ra Tòa án. Bởi bản chất của đơn phương ly thân là vợ chồng có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ và sẽ không thể đi đến quyết định nếu không có Tòa án giải quyết.
Thực tế có một số trường hợp đặc biệt cần dữ liệu như sau:
– Trường hợp vợ hoặc chồng là người bị bệnh tâm thần hoặc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ hành vi. Khi đó ta đặt ra câu hỏi, vợ hoặc chồng không đủ khả năng tự quyết định phương án giải quyết trong đời sống hôn nhân của mình, thì người thân thích của vợ, chồng có quyền thay vợ, chồng thực hiện quyền ly thân hay không? Theo tôi, nên quy định cha, mẹ, người thân thích khác của vợ (chồng) là người bị bệnh tâm thần hoặc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ hành vi có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly thân cho vợ (chồng), khi có căn cứ cho rằng ly thân có thể làm chấm dứt tình trạng mâu thuẫn mà không cần phải ly hôn. Quy định này không mâu thuẫn với nhận định “ly thân là quyền nhân thân của vợ chồng không thể chuyển giao” như đã phân tích ở trên; đồng thời, quy định này cũng phù hợp với căn cứ về quyền nhân thân tại Điều 25 Bộ luật Dân sự năm 2015:
Đối với quy định như trên, cha, mẹ hoặc người thân thích khác vì quyền, lợi ích hợp pháp của người yếu thế trong mối quan hệ vợ chồng để yêu cầu Tòa án xem xét cho ly thân nếu có căn cứ cho rằng có thể chấm dứt được tình trạng mâu thuẫn bằng cách thức ly thân mà không cần ly hôn; yêu cầu thay đổi người giám hộ của người bị mất năng lực hành vi dân sự, không thể nhận thức, làm chủ hành vi (bởi vợ hoặc chồng là người giám hộ của người còn lại trước khi Tòa án có quyết định cho vợ chồng ly thân). Điều này hoàn toàn phù hợp với lý thuyết chung về quyền nhân thân, đó là bên yếu thế cũng không “chuyển giao” quyền ly thân của họ cho cha, mẹ, người thân thích khác. Khi vợ chồng có đủ tư cách chủ thể (năng lực hành vi dân sự đầy đủ) thì không một chủ thể nào khác có quyền quyết định thay vợ chồng về việc có ly thân hay không, ly thân bao lâu, cách thức ly thân như thế nào..., kể cả người đó là cha, mẹ, người thân thích khác. Tuy nhiên, khi một người bị mất hoặc khiếm khuyết về mặt năng lực chủ thể, pháp luật phải có chế định để bảo vệ họ. Đó là cho phép cha, mẹ, người thân thích khác đại diện cho họ tham gia tố tụng giải quyết ly thân, với nền tảng và mục đích là bảo vệ quyền lợi cho bên yếu thế. Quy định như trên cũng phù hợp với các điều khoản về quyền yêu cầu ly hôn trong Luật hôn nhân và gia đình.
– Trường hợp vợ đang trong thời gian mang thai hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi, chồng có quyền yêu cầu ly thân không?
Theo tôi, nên quy định chồng có quyền yêu cầu ly thân trong thời gian vợ mang thai hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi, nhưng phải đi kèm với các điều kiện cụ thể. Bởi lẽ, mục đích của ly thân là tạo khoảng thời gian tạm xa cách giữa vợ chồng nhằm giải quyết xung đột, giúp vợ chồng quay trở lại chung sống hòa thuận. Đây chỉ là biện pháp tạm thời, vì vậy nó cần được xem xét sử dụng đến kể cả khi vợ mang thai hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi nếu thỏa mãn các điều kiện luật định. Nếu người chồng không có quyền yêu cầu ly thân trong giai đoạn này, rất dễ làm nảy sinh thêm nhiều vấn đề khiến quan hệ vợ chồng căng thẳng, tạo áp lực tâm lý lên phụ nữ và trẻ nhỏ, thậm chí dẫn đến ly hôn.
Luật HNGĐ năm 2014 quy định tại Điều 51 về quyền yêu cầu giải quyết ly hôn: “...3. Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi”. Theo đó, ly hôn là chấm dứt hoàn toàn hôn nhân, nên pháp luật HNGĐ dựa trên nền tảng là ưu tiên bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em đã quy định chồng không được quyền yêu cầu ly hôn khi vợ mang thai hoặc nuôi con nhỏ. Bởi lẽ, nếu chồng khởi kiện yêu cầu ly hôn vợ trong giai đoạn này sẽ dễ gây nên hệ lụy xấu cho vợ và con vì khi đó vợ đang trong giai đoạn tâm lý và sức khỏe bất ổn. Nếu chính thức kết thúc hôn nhân sẽ gây nên tâm lý bị “ruồng bỏ” cho vợ, tạo nên những hậu quả khó lường cho gia đình và xã hội, đặc biệt là nguy cơ ảnh hưởng xấu đến đứa trẻ vừa sinh ra. Vì vậy, quy định chồng vẫn được quyền yêu cầu ly thân khi vợ mang thai hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi khẳng định sự khác nhau về bản chất giữa ly thân và ly hôn. Khác với ly hôn, ly thân là giải pháp tạm thời nhằm giải quyết mâu thuẫn. Khi quy định chồng có quyền yêu cầu ly thân vợ đang mang thai hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi, Thẩm phán cần giải thích kỹ và rõ ràng cho cả vợ và chồng rằng đây là cách làm cần thiết trong giai đoạn này. Bởi nếu vợ chồng bắt buộc phải chung sống gần nhau khi người chồng không muốn, giữa họ rất khó giải quyết mâu thuẫn vốn có và rất dễ nảy sinh thêm mâu thuẫn mới. Nền tảng khi quy định cho người chồng quyền này là bắt nguồn từ nguyên tắc bảo vệ phụ nữ và trẻ em.
Tuy nhiên, không phải trường hợp nào chồng cũng có quyền yêu cầu ly thân khi vợ đang mang thai hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi, mà Thẩm phán chỉ chấp nhận khi xét thấy có các điều kiện theo quy định pháp luật. Theo tôi, nên quy định các điều kiện đó là: (1) Người vợ đang không trong giai đoạn phải điều trị đặc biệt về tâm lý hoặc sức khỏe; (2) Nếu ly thân thì người vợ và con vẫn được hưởng những điều kiện về chăm sóc không tệ hơn so với trước khi ly thân. Do đó, Thẩm phán cần căn cứ vào từng hoàn cảnh cụ thể để chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu ly thân của người chồng.
Ngoài ra, bản án cũng cần quy định rõ về nghĩa vụ của người chồng trong giai đoạn này. Nếu được chấp nhận quyền yêu cầu ly thân, người chồng vẫn phải có trách nhiệm đối với vợ đang mang thai (hoặc vợ mới sinh con) và con về vấn đề chăm sóc, giúp đỡ. Đặc biệt, Thẩm phán phải căn cứ vào tình hình kinh tế để quyết định mức cấp dưỡng phù hợp.
2. Căn cứ ly thân:
Xuất phát từ quan điểm không khuyến khích tình trạng sống ly thân nên quy định chỉ trong trường hợp mâu thuẫn nghiêm trọng, không thể tiếp tục chung sống với nhau, việc ly thân của vợ chồng mới được chấp nhận. Để đồng bộ với căn cứ ly hôn theo Luật HNGĐ năm 2014, cần quy định căn cứ ly thân như sau:
*Căn cứ thuận tình ly thân:
Thuận tình ly thân là trường hợp cả vợ và chồng đều tự nguyện, mong muốn được ly thân và họ đã thỏa thuận được về quyền và nghĩa vụ của mỗi bên dựa trên nguyên tắc bảo đảm quyền lợi cho phụ nữ và trẻ em. Vợ chồng có thể thuận tình ly thân mà không cần ra Tòa án, hoặc có thể nộp đơn yêu cầu công nhận thuận tình ly thân đến Tòa án có thẩm quyền.
Trong trường hợp vợ chồng lựa chọn phương thức thuận tình ly thân không qua tố tụng để đảm bảo sự riêng tư, họ cần đến văn phòng công chứng để công chứng văn bản thỏa thuận ly thân đó; việc ly thân có hiệu lực kể từ ngày vợ chồng thỏa thuận và được ghi trong văn bản; nếu trong văn bản không xác định thời điểm có hiệu lực thì thời điểm có hiệu lực được tính từ ngày lập văn bản. Vợ chồng cần lập văn bản có công chứng thỏa thuận về con chung, tài sản, cấp dưỡng, quyền và nghĩa vụ mỗi bên trong thời gian ly thân. Trong quá trình thực hiện thỏa thuận ly thân đó, nếu một bên (hoặc các bên) vi phạm thỏa thuận thì họ vẫn có thể khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết. Khi đó, đương sự có yêu cầu phải chứng minh họ đã ly thân và có thỏa thuận trên thực tế (chứng cứ là văn bản thỏa thuận đã công chứng). Tòa án tính thời gian ly thân kể từ ngày được ghi trên văn bản hoặc từ ngày văn bản được lập.
Khi vợ chồng thuận tình ly thân, sự tự nguyện của hai vợ chồng là một căn cứ quyết định, thông qua con đường tố tụng hoặc văn bản công chứng. Bảo đảm “thật sự tự nguyện ly thân” là cả hai vợ chồng đều được tự do bày tỏ ý chí của mình, không bị cưỡng ép, không bị lừa dối trong việc thuận tình ly thân. Việc thể hiện ý chí thật sự tự nguyện ly thân của vợ chồng đều phải xuất phát từ trách nhiệm đối với gia đình, phù hợp với yêu cầu của pháp luật và chuẩn mực, đạo đức xã hội. Bên cạnh đó, đòi hỏi vợ chồng còn phải có sự thoả thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ và con, nếu vợ chồng không thoả thuận được hoặc tuy có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của vợ và con thì Toà án quyết định giải quyết việc ly thân.
Tuy nhiên, theo tôi, khác với thuận tình ly hôn, khi vợ chồng quyết định thuận tình ly thân, Tòa án không cần tổ chức hòa giải. Bởi lẽ, vợ chồng lựa chọn phương án thuận tình ly thân cũng chính là đang lựa chọn một cách hòa giải phù hợp cho tình trạng hôn nhân.
Ngoài ra, Thẩm phán cũng cần xem xét kỹ từng nội dung thỏa thuận của vợ chồng trong yêu cầu thuận tình ly thân để tránh tình trạng ly thân giả. Tức là cần phòng tránh nguy cơ vợ chồng giả ly thân để tẩu tán tài sản, lừa dối bên thứ ba trong giao dịch dân sự... Dù là thuận tình ly thân nhưng Thẩm phán cũng không thể dễ dàng đồng ý với mọi điều khoản thỏa thuận giữa vợ chồng, mà cần xem xét kỹ về các khoản nợ chung, vay chung, các tranh chấp đang có với bên thứ ba... Kể cả trường hợp vợ chồng thỏa thuận thuận tình ly thân mà không đến Tòa án, khi xảy ra tranh chấp với bên thứ ba, Thẩm phán vẫn có thể dựa trên các nguyên tắc của luật dân sự để vô hiệu các thỏa thuận nếu vợ chồng giả ly thân để trốn tránh nghĩa vụ trong giao dịch dân sự. Vì vậy, cần nhắc lại rằng, không cần lo lắng về nguy cơ vợ chồng lợi dụng chế định ly thân để ly thân giả nhằm trốn tránh nghĩa vụ mà không công nhận ly thân pháp lý.
*Một bên vợ hoặc chồng yêu cầu ly thân:
Trường hợp ly thân khi có yêu cầu của một bên thì căn cứ vào:
– Vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung gặp nhiều khó khăn, mục đích của hôn nhân khó đạt được nhưng chưa muốn ly hôn.
Đương sự yêu cầu ly thân với mong muốn tìm ra cách giải quyết mâu thuẫn:
Khi vợ/chồng có hành vi bạo lực thì việc giải quyết ly thân còn nhằm giảm thiểu tình trạng tiếp tục bị bạo lực, hạn chế hậu quả của bạo lực, đảm bảo an toàn tính mạng, sức khỏe cho nạn nhân. Điều này cũng tương thích với quy định về biện pháp cấm tiếp xúc trong Luật phòng, chống bạo lực gia đình. Bởi qua tổng kết thực tiễn giải quyết các án kiện ly hôn của Toà án cho thấy số vụ ly hôn có hành vi ngược đãi, đánh đập chiếm tỷ lệ cao nhất trong các nguyên nhân dẫn đến ly hôn ở nước ta trong đó thì đa phần phụ nữ là nạn nhân của tình trạng này. Tình trạng bạo lực trong gia đình ngày càng gia tăng và thể hiện tính chất nghiêm trọng của nó. Tình trạng bạo lực trong gia đình xảy ra do nhiều lý do khác nhau. Có trường hợp do cuộc sống vật chất quá khó khăn. Có trường hợp do ghen tuông, nghi ngờ một bên ngoại tình nên đã đánh đập nhau. Tệ cờ bạc, nghiện ngập cũng là lý do dẫn đến tình trạng vợ chồng đánh đập, ngược đãi nhau. Đa phần bạo lực trong gia đình dẫn đến tình trạng vợ chồng ly thân và sau đó là ly hôn, có trường hợp dẫn đến án mạng. Bên cạnh đó, đối với những vi phạm khác, những mâu thuẫn, xung đột, bất đồng trong đời sống vợ chồng... là lý do để ly thân thì luật cũng quy định rõ ràng phải có cơ sở nhận định chung rằng tình trạng trầm trọng, đời sống chung gặp khó khăn nhưng nếu sửa đổi thì vẫn có thể tiếp tục, mục đích hôn nhân khó đạt được nhưng chưa muốn ly hôn thì giải quyết cho ly thân.
Lúc này, Thẩm phán cần xem xét yếu tố lỗi của mỗi bên để ra quyết định cho ly thân hay không. Bởi rõ ràng Luật HNGĐ năm 2014 đã đưa yếu tố lỗi để xem xét cho ly hôn (với điều kiện yếu tố lỗi phải có mối quan hệ nhân quả với tình trạng trầm trọng của vợ chồng – theo khoản 1 Điều 56 Luật HNGĐ năm 2014), qua đó thể hiện sự học hỏi quy định của một số nước trên thế giới (như Pháp, Canada, Singapore...) khi có sự kết hợp giữa thực trạng của hôn nhân và yếu tố lỗi để giải quyết việc ly hôn. Vì vậy, yếu tố lỗi đương nhiên được xét đến để giải quyết ly thân. Đây cũng là căn cứ quan trọng để Thẩm phán quyết định về quyền và nghĩa vụ mỗi bên khi ly thân.
Toà án không thể dựa vào mục đích của hai người khi kết hôn có đạt được hay không để xem xét giải quyết ly thân. Phần lớn mục đích của nam và nữ trước khi kết hôn là hướng tới xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững nhưng cũng có nhiều cuộc hôn nhân được xác lập bắt đầu từ những mục đích khác nhau. Dù cho họ từng kết hôn với mục đích nào đi chăng nữa thì mục đích của hôn nhân bền vững, hạnh phúc vẫn là tiêu chuẩn cao nhất mà bất kỳ ai kết hôn cũng hướng tới. Nhà làm luật ở đây muốn nói đến mục đích cốt lõi của hôn nhân là xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững. Vì vậy, nếu xét thấy mục đích này khó đạt được với tình trạng hôn nhân hiện tại, đương sự muốn ly thân để có thời gian tìm cách giải quyết mâu thuẫn và nếu khắc phục được những sai lầm thì hôn nhân có thể tiếp tục thì Thẩm phán ra quyết định cho vợ chồng ly thân.
– Vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của cha, mẹ với con:
Trên thực tế có rất nhiều trường hợp người cha hoặc mẹ vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ đối với con cái, đặc biệt là vi phạm các nghĩa vụ tại Điều 69 Luật HNGĐ năm 2014 như: (1) Không thương yêu con, tôn trọng ý kiến của con; không chăm lo việc học tập, giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức; (2) Không trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình; (3) Không thực hiện nghĩa vụ giám hộ hoặc đại diện cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự; (4) Phân biệt đối xử với con trên cơ sở giới hoặc theo tình trạng hôn nhân của cha mẹ; (5) Lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động; (6) Xúi giục, ép buộc con làm việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội. Đơn cử như trường hợp người cha do nghiện rượu thường xuyên có hành vi bạo hành đối với con cái trong khi say xỉn. Trong tình huống này, để bảo vệ người con khỏi sự nguy hiểm, người mẹ chỉ có thể tách người cha ra khỏi con của họ. Xét trên phương diện pháp lý, theo quy định pháp luật hiện hành thì người mẹ chỉ có thể thực hiện được việc ngăn cách người con với người cha bằng biện pháp ly hôn. Tuy nhiên, nếu như trường hợp vợ chồng vẫn còn tình cảm, người vợ hoàn toàn không muốn ly hôn chồng mà vẫn muốn bảo vệ người con thì pháp luật sẽ xử lý ra sao? Rõ ràng trong tình huống này chế định ly thân sẽ là một giải pháp hữu hiệu để giải quyết vấn đề trên. Người vợ hoàn toàn có quyền sử dụng căn cứ “Người cha vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ với con” để thực hiện quyền ly thân. Ly thân trong tình huống này sẽ giúp người vợ không những bảo vệ được con mình mà vẫn có thể giữ được mối quan hệ hôn nhân với người chồng. Mặt khác, khi ly thân, người chồng sẽ có thời gian để suy nghĩ, đánh giá và nhìn nhận lại những hành vi sai trái của mình, rút kinh nghiệm và khắc phục hậu quả mà mình gây ra. Đây chính là khoảng thời gian lặng giúp gia đình bình tâm suy nghĩ, hàn gắn những rạn nứt và xây dựng gia đình tốt đẹp hơn.
– Có căn cứ về việc chồng (vợ) có hành vi bạo lực gia đình đối với vợ (chồng) bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của vợ (chồng) nhưng không đến mức phải ly hôn:
Trong trường hợp này, cha, mẹ, người thân thích khác của người bị tâm thần, người bị bệnh không thể nhận thức, làm chủ hành vi cần đưa ra căn cứ chứng minh rằng người còn lại có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người yếu thế (là vợ hoặc chồng bị bạo lực), nhưng không đến mức phải ly hôn (hay có căn cứ cho thấy ly thân là có thể chấm dứt được tình trạng bạo lực đó). Theo đó, bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình” (Điều 1 Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007).
Cụ thể, cha, mẹ hoặc người thân thích khác của người yếu thế cần chứng minh về hành vi bạo lực gia đình, nêu lên lập luận, yêu cầu Tòa án cho ly thân để bảo vệ người yếu thế, nếu không ly thân thì sẽ có hậu quả như thế nào, yêu cầu thay đổi người giám hộ, theo dõi tình hình và yêu cầu chấm dứt ly thân nếu thấy người kia thay đổi, hôn nhân có thể tiếp tục... Điểm mấu chốt của quy định này là nhằm bảo đảm quyền lợi chính đáng cho bên yếu thế khi thấy tình trạng hôn nhân hiện tại khó khăn, nhưng vẫn có thể tiếp tục duy trì mà không cần thiết phải ly hôn (bởi có căn cứ cho rằng ly thân sẽ chấm dứt được tình trạng bạo lực gia đình đó).
3. Hệ quả pháp lý của ly thân:
Hệ quả pháp lý của ly thân được xem xét từ ba góc độ: Hệ quả về nhân thân, tài sản giữa vợ và chồng, quan hệ giữa cha mẹ và con.
– Về quan hệ nhân thân khi vợ chồng ly thân:
Khi ly thân, vợ chồng chỉ chấm dứt nghĩa vụ sống chung mà không chấm dứt quan hệ vợ chồng. Theo đó, vợ chồng phải tuân thủ quy định của Luật HNGĐ về nghĩa vụ chung thủy và chế độ một vợ một chồng. Trên thực tế, rất nhiều trường hợp vợ chồng vi phạm nghĩa vụ chung thủy khi đang trong giai đoạn ly thân. Bởi họ nghĩ rằng ly thân có thể tự do tìm hiểu và chung sống như vợ chồng với người khác. Vì vậy, để không làm sai lệch và mất đi ý nghĩa của ly thân (ly thân không phải một giai đoạn “quá độ” để ly hôn mà là một biện pháp tạm thời nhằm khắc phục, sửa chữa, xoa dịu mâu thuẫn của vợ chồng), pháp luật cần quy định rõ vấn đề này. Đó là nghiêm cấm hành vi ngoại tình hoặc chung sống như vợ chồng với người khác mà làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình trạng hôn nhân khi ly thân, đẩy cuộc hôn nhân dễ hoặc nhanh hơn đến ly hôn. Nếu một trong hai bên cố tình vi phạm nghĩa vụ này thì được xem là một trong những căn cứ lỗi cho phép ly hôn khi vợ chồng đang trong giai đoạn ly thân, đồng thời đây cũng là căn cứ để xem xét đến vấn đề tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.
Bên cạnh đó, Luật HNGĐ cũng cần quy định về nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau giữa vợ và chồng khi ly thân. Do đây là thời gian pháp luật cho phép vợ chồng chấm dứt nghĩa vụ chung sống nên giữa họ sẽ giảm độ gắn kết về tình cảm, không còn quan tâm, yêu thương, giúp đỡ nhau thường xuyên như khi còn hòa thuận. Tuy nhiên, không thể phủ nhận họ vẫn là vợ chồng trước pháp luật, nên Tòa án cũng cần quy định những nghĩa vụ tối thiểu về quan tâm, giúp đỡ nhau của vợ chồng. Đặc biệt, vợ hoặc chồng có nghĩa vụ cấp dưỡng cho đối phương nếu họ ở tình trạng khó khăn về kinh tế, không thể tự trang trải cuộc sống, dựa trên nền tảng là nguyên tắc bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và trẻ em. Đây cũng là yếu tố quan trọng giúp vợ chồng hàn gắn tình cảm.
– Về quan hệ tài sản giữa vợ và chồng:
Nếu vợ chồng thiết lập chế độ tài sản theo thỏa thuận thì sẽ thực hiện theo thỏa thuận đó. Tất nhiên các thỏa thuận này phải đảm bảo các nguyên tắc chung của luật dân sự, không làm phương hại đến quyền, lợi ích chính đáng của bên thứ ba trong giao dịch dân sự; đảm bảo vợ chồng hoàn toàn tự nguyện khi thiết lập thỏa thuận (không bị lừa dối, cưỡng ép, đe dọa, nhầm lẫn). Nếu các thỏa thuận này vi phạm những điều trên và có yêu cầu Tòa án giải quyết, thì Tòa án có thể tuyên những điều khoản vi phạm vô hiệu.
Nếu vợ chồng không có thỏa thuận hoặc không thỏa thuận được về tài sản mà có yêu cầu thì Tòa án áp dụng quy định về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân để giải quyết. Cụ thể, trong trường hợp vợ chồng yêu cầu về chia tài sản chung có trước ngày việc ly thân có hiệu lực thì Tòa án giải quyết theo các nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn.
Kể từ ngày việc ly thân có hiệu lực, Vợ, chồng có quyền sở hữu riêng đối với những tài sản mà mỗi bên có được và chịu trách nhiệm riêng về những nghĩa vụ mà mình xác lập, thực hiện, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Cụ thể, trong trường hợp vợ chồng không có thỏa thuận khác thì những tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ hoặc chồng trong thời kỳ hôn nhân; hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng thuộc sở hữu riêng của mỗi người. Phần tài sản chung chưa chia; hoa lợi, lợi tức của những tài sản này và những tài sản mà vợ chồng được tặng cho chung, được thừa kế chung vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng.
– Về quyền của cha mẹ và con khi vợ chồng ly thân:
Khi ly thân, cha mẹ vẫn có quyền và nghĩa vụ chăm sóc, quan tâm, trông nom, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mà mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình. Theo đó, dù chấm dứt nghĩa vụ sống chung, hai bên vẫn có nghĩa vụ ngang nhau trong việc chăm sóc, quan tâm, trông nom, giáo dục con cái. Vợ chồng có thể thỏa thuận về việc ai là người sống chung với con chưa thành niên, con bị khiếm khuyết về thể chất không thể tự sống riêng độc lập, cách thức thăm nom, giáo dục con... Nếu vợ chồng không thể tự thỏa thuận hoặc thỏa thuận nhưng xâm phạm quyền, lợi ích chính đáng của con thì Tòa án quyết định vấn đề này.
Bên cạnh đó, con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.
Để đồng bộ với chế định ly hôn, pháp luật cũng cần quy định khi vợ chồng ly thân, con chưa thành niên từ đủ 07 tuổi trở lên có quyền nêu ý kiến về mong muốn sống chung với bố hay mẹ và Thẩm phán có trách nhiệm xem xét ý kiến này. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
Trong thời gian ly thân, người không trực tiếp nuôi dưỡng con chung chưa thành niên, con đã thành niên mà mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình phải có nghĩa vụ cấp dưỡng, đóng góp công sức nuôi dạy con cái. Về mức cấp dưỡng, như đã phân tích ở trên, tùy theo hoàn cảnh kinh tế của mỗi gia đình nên không thể áp đặt một mức cấp dưỡng chung cho tất cả đối tượng. Thẩm phán cần vận dụng linh hoạt pháp luật, tùy từng vụ việc cụ thể và sự thỏa thuận của các bên để quyết định về số tiền cấp dưỡng. Tuy nhiên, khoản tiền cấp dưỡng này cần đủ để đảm bảo mức sống tối thiểu của con và không thấp hơn so với trước khi vợ chồng ly thân. Khi bên có nghĩa vụ cấp dưỡng vi phạm nghĩa vụ, bên còn lại có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngược lại, nếu tình hình kinh tế của vợ chồng thay đổi, họ có thể thỏa thuận lợi về mức cấp dưỡng, hoặc vợ (chồng) là người trực tiếp nuôi con có quyền từ chối nhận cấp dưỡng nếu chồng (vợ) có khó khăn về kinh tế không thể tiếp tục cấp dưỡng và vợ (chồng) có khả năng kinh tế đủ để tự chăm lo cho con. Thỏa thuận này cần được lập thành văn bản. Trong trường hợp bên có nghĩa vụ cấp dưỡng có khó khăn về kinh tế nên không thể tiếp tục thực hiện nghĩa vụ và vợ chồng thông thể tự thỏa thuận được với nhau, họ cũng có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.
4. Thời gian và thủ tục ly thân:
4.1. Thời gian ly thân:
Theo tôi, không nên quy định thời gian tối thiểu và tối đa cho ly thân. Việc này phụ thuộc vào quyết định của vợ chồng, có thể sau thời gian ngắn ly thân, họ tìm được cách giải quyết mâu thuẫn và quay trở về bên nhau sống hòa thuận, nhưng cũng có vợ chồng có nguyện vọng ly thân trong thời gian dài, nhiều năm và họ cho rằng điều đó tốt cho tình trạng hôn nhân của họ. Pháp luật không nên can thiệp hay giới hạn thời gian ly thân mà nên để việc này thuộc toàn quyền quyết định cho vợ chồng.
Bên cạnh đó, cũng cần nhận thức rõ ràng rằng ly hôn không bao giờ tự động xảy ra sau ly thân. Tuy nhiên, nếu có yêu cầu ly hôn sau ly thân, theo tôi, nên quy định ly thân là một căn cứ để Tòa án xem xét cho ly hôn. Qua tham khảo quy định của các quốc gia khác, theo tôi, 02 năm ly thân liên tục là thời gian hợp lý để Tòa án coi đây là căn cứ cho rằng cuộc sống hôn nhân trầm trọng, cuộc sống chung không thể tiếp tục...
Nếu trong khoảng thời gian 02 năm ly thân liên tục, vợ chồng quay lại với nhau trong một thời gian ngắn thì cách tính thời gian ly thân làm căn cứ xem xét ly hôn nên được tính thế nào? Theo tôi, nên tham khảo Luật gia đình Australia: Nếu trong thời gian ly thân, vợ chồng quay lại với nhau dưới 90 ngày thì thời gian đó không ảnh hưởng đến thời gian ly thân. Mục đích của quy định này nhằm cho phép vợ chồng thử sửa chữa sai lầm mà không trì hoãn ly hôn nếu nỗ lực đó không thành công. Theo đó, pháp luật nước ta nên quy định trong thời gian 02 năm ly thân, nếu vợ chồng quay lại sống chung với nhau dưới 90 ngày thì thời gian đó vẫn được tính là ly thân. Nhưng nếu hai bên quay lại sống chung với nhau quá 90 ngày nhưng lại ly thân một lần nữa thì thời gian ly thân sẽ được tính bắt đầu lại.
4.2. Thủ tục ly thân:
Vợ chồng có thể nộp đơn yêu cầu công nhận thuận tình ly thân hoặc một bên vợ, chồng nộp đơn yêu cầu giải quyết đơn phương ly thân. Như phần trên đã phân tích, khi giải quyết yêu cầu ly thân, Tòa án không cần tiến hành hòa giải, bởi chính ly thân có bản chất là một cách thức “hòa giải”. Vợ chồng lựa chọn phương án ly thân nghĩa là đang có mong muốn sửa chữa sai lầm, hàn gắn mâu thuẫn.
Đối với trường hợp vợ chồng thuận tình ly thân: Tòa án lập biên bản ghi nhận sự thuận tình ly thân của vợ chồng, quyền và nghĩa vụ về tài sản, con cái và những thỏa thuận khác mà vợ chồng đã thiết lập không trái với pháp luật, đạo đức xã hội. Vợ và chồng đều phải ký vào biên bản đó. Sau 07 ngày, nếu vợ chồng không có ý kiến gì khác, Tòa án ra quyết định công nhận ly thân của vợ chồng. Trong thời gian ly thân, vợ chồng có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định ly thân bất cứ thời điểm nào mà không bị giới hạn về mặt thời gian.
Đối với trường hợp đơn phương ly thân: Tòa án giải quyết tranh chấp về tài sản, quyền nuôi con của vợ chồng dựa trên nội dung đơn yêu cầu của đương sự. Đương sự nộp hồ sơ khởi kiện về việc xin đơn phương ly thân tại Tòa án nhân dân cấp quận/huyện nơi bị đơn (chồng hoặc vợ) đang cư trú, làm việc; Đương sự nộp tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm tại Chi cục thi hành án quận/huyện và nộp lại biên lai tiền tạm ứng án phí cho Tòa án sau khi nhận thông báo nộp tiền tạm ứng án phí của Tòa án; Tòa án thụ lý vụ án, tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục chung và ra Bản án hoặc quyết định giải quyết vụ án. Thời gian giải quyết: Thời hạn xét xử là từ 02 đến 03 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án; thời hạn mở phiên tòa là từ 15 ngày đến 30 ngày kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử.
5. Những vấn đề pháp lý khác của ly thân:
5.1. Nuôi con nuôi trong thời gian ly thân:
Theo Luật HNGĐ năm 2014 và Luật nuôi con nuôi năm 2010 thì điều kiện nhận nuôi con nuôi như sau: Khoản 3 Điều 8 Luật nuôi con nuôi năm 2010 quy định: “Một người chỉ được làm con nuôi của một người độc thân hoặc của cả hai người là vợ chồng”. Như vậy, nếu vợ hoặc chồng muốn nhận con nuôi thì phải nhận được sự đồng ý của người còn lại, đứa trẻ đó sẽ là con nuôi của cả vợ và chồng, chứ không thể làm con nuôi của riêng vợ hoặc chồng được. Ngoài ra muốn nhận con nuôi, vợ chồng còn phải đáp ứng các điều kiện như có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên; có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi, có tư cách đạo đức tốt...
Tuy nhiên, nếu vợ chồng ly thân, tức là giữa họ đang thiết lập tình trạng không cùng chung sống, tài sản riêng, thì nếu một trong hai bên có nhu cầu muốn nhận nuôi con nuôi sẽ giải quyết thế nào? Theo tôi, quy định như tại khoản 3 Điều 8 Luật nuôi con nuôi năm 2010 vẫn phù hợp với trường hợp vợ chồng ly thân. Bởi lẽ, tuy vợ chồng không còn chung sống nhưng họ vẫn là vợ chồng trước pháp luật. Vấn đề nhận nuôi con nuôi lại là chuyện hết sức quan trọng với gia đình, cần sự đồng thuận của vợ chồng. Nếu cho phép một bên được quyền nhận nuôi con nuôi mà không cần sự đồng ý của người kia trong thời gian ly thân sẽ rất dễ dẫn đến tình trạng phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, thậm chí đẩy ly thân nhanh tới ly hôn. Hơn nữa, nếu pháp luật cho phép một bên được nhận nuôi con nuôi trong khi vợ chồng ly thân sẽ tạo nên “bức tường cản trở vợ chồng quay trở lại bên nhau. Đặc biệt là trong trường hợp nếu sau này vợ chồng hòa hợp và chấm dứt ly thân, vấn đề nuôi con nuôi sẽ vô cùng phức tạp giữa hai người nếu như vợ (chồng) vẫn không đồng ý nhận nuôi con nuôi mà chồng (vợ) mình đã nhận nuôi trước đó. Theo đó, trong thời gian ly thân, vợ chồng vẫn cần sự thống nhất ý chí trong việc nhận nuôi con nuôi. Nếu vợ (chồng) có lý do chính đáng muốn nhận nuôi con nuôi và chồng (vợ) vẫn không đồng ý thì vợ (chồng) có quyền nộp đơn yêu cầu Tòa án giải quyết. Trong đơn phải giải thích rõ lý do muốn nhận nuôi con nuôi.
Ngoài ra, trường hợp trong thời gian ly thân, cả vợ và chồng đều muốn nhận nuôi con nuôi thì xử lý như thế nào? Theo tôi, điều này là không thực tế bởi rất hy hữu trường hợp vợ chồng thống nhất được nguyện vọng nhận nuôi con nuôi khi đang không cùng chung sống. Tuy nhiên, nếu xảy ra trường hợp vợ chồng thống nhất được ý chí nhận nuôi con nuôi khi đang trong giai đoạn ly thân thì pháp luật cũng không nên chấp nhận. Bởi lẽ, khi đang ly thân, quan hệ vợ chồng rơi vào tình trạng mâu thuẫn, bất hòa, nên việc cho phép nhận nuôi con nuôi sẽ không đảm bảo lợi ích của trẻ được nhận nuôi. Đứa trẻ sẽ phải chứng kiến sự bất hòa, cãi vã giữa bố và mẹ nuôi; không được hưởng sự chăm sóc, giáo dục, yêu thương trọn vẹn giữa bố và me...
5.2. Chấm dứt ly thân:
Chấm dứt ly thân xảy ra theo một trong hai trường hợp: Vợ chồng giải quyết được mâu thuẫn và quay trở lại bên nhau; hoặc vợ chồng quyết định ly hôn.
– Đối với trường hợp vợ chồng quay trở lại sống chung với nhau:
+ Nếu trước đó vợ chồng xác lập ly thân qua Tòa án: Vợ chồng nộp đơn yêu cầu chấm dứt ly thân lên Tòa án đã ra bản án/quyết định ly thân cho họ trước đó. Tòa án xem xét và quyết định dựa trên tinh thần khuyến khích vợ chồng hàn gắn, quay trở lại chung sống hòa thuận.
+ Đối với trường hợp trước đó vợ chồng ly thân mà không ra Tòa: Vợ chồng cần xác lập thỏa thuận bằng văn bản có công chứng nêu rõ việc tự nguyện chấm dứt ly thân.
Khi ly thân chấm dứt, chế độ tài sản trong ly thân vẫn có hiệu lực, trừ khi vợ chồng có thỏa thuận khác.
– Đối với trường hợp vợ chồng cải biến từ ly thân thành ly hôn: Trong thời gian ly thân, vợ chồng có thể nộp đơn xin ly hôn bất cứ thời điểm nào nếu có nhu cầu chấm dứt hôn nhân và Tòa án xét thấy có căn cứ cho rằng đời sống chung không thể tiếp tục... Bên cạnh đó, nếu vợ chồng ly thân trong thời gian dài và có nhu cầu ly hôn thì Tòa án có thể căn cứ vào thời gian ly thân như đã phân tích ở trên (02 năm) để làm căn cứ cho ly hôn (nếu vợ chồng không sống chung liên tục từ 02 năm trở lên thì Tòa án có căn cứ cho rằng đời sống hôn nhân trầm trọng). Tòa án cần xem xét kỹ lưỡng về vấn đề tài sản để tránh xảy ra tranh chấp với bên thứ ba trong giao dịch dân sự mà vợ chồng đã thiết lập trong thời gian ly thân. Quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ đối với con trong thời gian ly thân vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp có căn cứ về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng cho con khi ly hôn.