Vàng là một tài sản có giá trị và việc đào được vàng là sự việc khá hi hữu trong cuộc sống hằng ngày. Vậy khi đào được vàng có phải nộp lại cho Nhà nước không?
Mục lục bài viết
1. Đào được vàng có phải nộp lại cho Nhà nước không?
Vàng là một loại tài sản và sẽ tùy từng trường hợp mà đào được vàng có phải nộp lại cho Nhà nước hay là không, cụ thể những trường hợp sau:
1.1. Số vàng đào được là tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên:
Căn cứ Điều 230 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về xác lập quyền sở hữu đối với tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên thì số vàng đào được sẽ được giải quyết như sau:
– Nếu biết địa chỉ người đánh rơi, bỏ quên số vàng đào được: người đào được vàng thông báo/trả lại cho người đó.
– Nếu không biết địa chỉ của người đánh rơi, bỏ quên số vàng đào được: Thông báo, giao nộp đến cho UBND cấp xã/công an cấp xã nơi gần nhất để thực hiện thông báo công khai thông tin về số vàng đào được. Sau 01 năm kể từ gnày thông báo đến cho UBND cấp xã mà không xác định được chủ sở hữu của số vàng thì sẽ xử lý số vàng như sau:
+ Số vàng đào được có giá trị nhỏ hơn hoặc bằng 10 lần mức lương cơ sở: số vàng trở thành tài sản thuộc quyền sở hữu của người đào được vàng.
+ Số vàng có giá trị lớn hơn 10 lần mức lương cơ sở: Người đào được vàng được hưởng 10 lần mức lương cơ sở và 50% giá trị của phần vượt quá 10 lần mức lương cơ sở, phần giá trị còn lại sẽ thuộc về Nhà nước sau khi đã trừ đi chi phí bảo quản.
+ Số vàng là di tích lịch sử – văn hóa: Thuộc về Nhà nước, người đào được sẽ hưởng tiền thưởng.
Như vậy, nếu số vàng đào được là tài sản thuộc di tích lịch sử – văn hoá theo quy định của Luật di sản văn hóa thì tài sản đó (số vàng đào được) thuộc về Nhà nước. Có nghĩa là, trong trường hợp số vàng đào được là tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên thì người đào được sẽ chỉ phải nộp lại cho Nhà nước nếu số vàng đó là tài sản thuộc di tích lịch sử – văn hoá, còn nếu như không phải là tài sản thuộc di tích lịch sử – văn hoá thì người đào được số vàng đó sau 01 năm kể từ ngày thông báo công khai về tài sản (số vàng đào được) sẽ thuộc quyền sở hữu của người này nếu số vàng đào được có giá trị nhỏ hơn hoặc bằng mười lần mức lương cơ sở, nếu vượt quá thì sẽ được hưởng thêm 50% giá trị của phần vượt quá, phần giá trị còn lại thuộc về Nhà nước.
1.2. Số vàng đào được là tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm được tìm thấy:
Căn cứ Điều 229 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về xác lập quyền sở hữu đối với tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm được tìm thấy thì ở trường hợp này cũng gần tương tự như trường hợp số vàng đào được là tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên đã nêu trên. Theo đó, người đào được vàng trong trường hợp này cũng sẽ phải thông báo/giao nộp cho UBND cấp xã/công an cấp xã nơi gần nhất hoặc cơ quan nhà nước khác. Căn cứ vào loại tài sản để xác định quyền sở hữu như sau:
– Số vàng đao được là di tích lịch sử – văn hóa: Thuộc về Nhà nước, người tìm thấy được hưởng một khoản tiền.
– Số vàng đào được không phải là di tích lịch sử – văn hóa:
+ Giá trị của số vàng đào được có giá trị nhỏ hơn hoặc bằng 10 lần mức lương cơ sở thì số vàng đó thuộc về người tìm thấy
+ Giá trị của số vàng đào được có giá trị lớn hơn 10 lần mức lương cơ sở thì người tìm thấy số vàng đó được nhận số tiền bằng 10 lần mức lương cơ sở và 50% giá trị vượt quá 10 lần mức lương cơ sở; giá trị phần còn lại thuộc về Nhà nước.
Như vậy, ở trường hợp này cũng tương tự như trường hợp trên, nếu số vàng đào được là tài sản thuộc di tích lịch sử – văn hoá theo quy định của Luật di sản văn hóa thì tài sản đó (số vàng đào được) thuộc về Nhà nước. Còn nếu như số vàng đào được không phải là tài sản thuộc di tích lịch sử – văn hoá thì sẽ thuộc quyền sở hữu của người này nếu số vàng đào được có giá trị nhỏ hơn hoặc bằng mười lần mức lương cơ sở, nếu giá trị vượt quá thì sẽ được hưởng thêm 50% giá trị của phần vượt quá, phần giá trị còn lại thuộc về Nhà nước. Ở trường hợp này chỉ khác ở trường hợp trên đó là trường hợp số vàng đào được là tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên có xác định về thời gian xác lập quyền sở hữu đối với số vàng đào được còn ở trường hợp này thì pháp luật không quy định về thời gian xác lập quyền sở hữu.
1.3. Số vàng đào được là tài sản vô chủ:
Căn cứ Điều 228 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về xác lập quyền sở hữu đối với tài sản vô chủ, tài sản không xác định được chủ sở hữu thì ở trường hợp này người đào được vàng có quyền sở hữu đối với số vàng đó. Tuy nhiên, khi đào được vàng thì người đó phải thông báo hoặc giao nộp cho Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã nơi gần nhất để thực hiện thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại số vàng đao được. Sau đó, Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã đã nhận tài sản là số vàng đào được phải thông báo cho người phát hiện về kết quả xác định chủ sở hữu. Sau 01 năm, kể từ ngày thực hiện thông báo công khai mà không xác định được ai là chủ sở hữu của số vàng đào được thì quyền sở hữu đối với số vàng đào được thuộc về người phát hiện tài sản.
Như vậy, ở trường hợp này, số vàng đào được sẽ không phải nộp lại cho Nhà nước mà sẽ thuộc về quyền sở hữu của người đào được vàng nếu sau 01 năm, kể từ ngày thông báo công khai mà không xác định được ai là chủ sở hữu của số vàng.
2. Đào được vàng không thông báo hoặc giao nộp cho Uỷ ban nhân dân cấp xã có bị phạt không?
Như đã phân tích ở trên, có thể thấy trong cả 03 trường hợp thì người đào được vàng trước tiên phải thông báo hoặc giao nộp cho Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã nơi gần nhất để tìm người chủ sở hữu của số vàng đào được. Nếu người đào được vàng không thông báo hoặc giao nộp cho Uỷ ban nhân dân cấp xã mà để sử dụng làm của riêng thì có thể sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chiếm giữ trái phép tài sản. Điều 176 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung 2017 quy định người nào cố tình không trả lại cho chủ sở hữu, cho người quản lý hợp pháp hoặc không giao nộp cho cơ quan có trách nhiệm tài sản mà có trị giá từ 10.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng hoặc giá trị dưới 10.000.000 đồng nhưng tài sản là di vật, cổ vật bị giao nhầm hoặc do chính mình tìm được, bắt được, sau khi chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc là cơ quan có trách nhiệm yêu cầu được nhận lại tài sản đó theo quy định của pháp luật, thì sẽ bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm. Phạm tội chiếm giữ tài sản mà có trị giá 200.000.000 đồng trở lên hoặc bảo vật quốc gia, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
Như vậy, nếu người đào được vàng không thông báo hoặc giao nộp cho Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã nơi gần nhất mà để sử dụng làm của riêng thì có thể phải đối mặt với những hình phạt sau:
– Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm, nếu:
+ Số vàng đào được trị giá từ 10.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng
+ Dưới 10.000.000 đồng nhưng số vàng đào được là di vật, cổ vật.
– Phạt tù từ 01 năm đến 05 năm, nếu số vàng đào được có trị giá 200.000.000 đồng trở lên hoặc là bảo vật quốc gia.
Những văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Dân sự 2015;
– Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung 2017.