Vay tài sản đó chính là sự thỏa thuận giữa các bên với nhau, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho chính bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thoả thuận hoặc là pháp luật đã có quy định. Vậy công ty vay tiền của cá nhân để kinh doanh được không?
Mục lục bài viết
1. Công ty vay tiền của cá nhân để kinh doanh được không?
Điều 463 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về hợp đồng vay tài sản, Điều này đã quy định hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên với nhau, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho chính bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thoả thuận hoặc là pháp luật đã có quy định. Từ quy định này có thể hiểu vay tài sản đó chính là sự thỏa thuận giữa các bên với nhau, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho chính bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thoả thuận hoặc là pháp luật đã có quy định. Giao dịch vay tài sản là một trong những loại của giao dịch dân sự. Khoản 1 Điều 117 quy định về những điều kiện để có hiệu lực của giao dịch dân sự, Điều này quy định rõ giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
– Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với chính giao dịch dân sự được xác lập;
– Chủ thể tham gia giao dịch dân sự phải hoàn toàn tự nguyện;
– Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không được vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
Mà theo quy định tại Điều 86 Bộ luật Dân sự 2015 quy định năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân như sau:
– Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân là khả năng của pháp nhân có về các quyền, nghĩa vụ dân sự. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân không bị hạn chế, sẽ chỉ trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
– Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát sinh từ thời điểm được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập hoặc là cho phép được thành lập; nếu pháp nhân phải đăng ký hoạt động thì năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát sinh ngay từ thời điểm ghi vào sổ đăng ký.
– Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân sẽ chấm dứt kể từ thời điểm chấm dứt pháp nhân.
Thêm nữa, tại Điều 6 Nghị định 222/2013/NĐ-CP về thanh toán bằng tiền mặt có quy định về giao dịch tài chính của doanh nghiệp, Điều này đã quy định về Giao dịch tài chính của doanh nghiệp như sau:
– Các doanh nghiệp không thanh toán bằng tiền mặt trong những giao dịch góp vốn và mua bán, chuyển nhượng phần vốn góp vào doanh nghiệp.
– Các doanh nghiệp không phải tổ chức tín dụng không được sử dụng tiền mặt khi vay và cho vay lẫn nhau.
Qua các quy định vừa nêu trên và các quy định của pháp luật khác có liên quan thì có thể khẳng định được rằng công ty hoàn toàn được vay tiền của cá nhân để kinh doanh, tuy nhiên khi công ty vay tiền của cá nhân để kinh doanh thì phải đáp ứng được các điều kiện sau và không được thuộc các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu mà Bộ luật Dân sự đã quy định:
– Có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân;
– Các chủ thể tham gia trong giao dịch vay tiền hoàn toàn tự nguyện;
– Mục đích và nội dung của giao dịch vay tiền không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
Lưu ý rằng, nếu như công ty vay tiền của công ty khác không phải là tổ chức tín dụng để kinh doanh thì không được sử dụng tiền mặt khi vay và cho vay lẫn nhau.
2. Các trường hợp công ty vay tiền của cá nhân để kinh doanh bị vô hiệu:
Như đã phân tích ở mục trên, công ty hoàn toàn được vay tiền của cá nhân để kinh doanh, tuy nhiên khi công ty vay tiền của cá nhân để kinh doanh thì không được thuộc các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu mà Bộ luật Dân sự đã quy định. Các trường hợp công ty vay tiền của cá nhân để kinh doanh bị vô hiệu bao gồm có các trường hợp sau:
Trường hợp 1: Giao dịch vay tiền giữa công ty và cá nhân không có một trong các điều kiện để có hiệu lực của giao dịch dân sự, bao gồm:
– Có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân;
– Các chủ thể tham gia trong giao dịch vay tiền hoàn toàn tự nguyện;
– Mục đích và nội dung của giao dịch vay tiền không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
Trường hợp 2: Giao dịch vay tiền giữa công ty và cá nhân vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội
Giao dịch vay tiền giữa công ty và cá nhân có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu. Trong đó:
– Điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ thể được thực hiện những hành vi nhất định.
– Đạo đức xã hội là các chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.
Trường hợp 3: Giao dịch vay tiền giữa công ty và cá nhân vô hiệu do giả tạo
– Khi các bên xác lập giao dịch vay tiền một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch vay tiền đó bị vô hiệu, còn giao dịch dân sự mà bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đã bị che giấu cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan.
– Trường hợp xác lập giao dịch vay tiền nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch vay tiền vô hiệu.
Trường hợp 4: Giao dịch vay tiền giữa công ty và cá nhân vô hiệu do bị nhầm lẫn
– Trường hợp giao dịch vay tiền được xác lập có sự nhầm lẫn làm cho một bên hoặc các bên không đạt được về những mục đích của việc xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu
– Giao dịch vay tiền được xác lập có sự nhầm lẫn không vô hiệu trong trường hợp mục đích xác lập giao dịch vay tiền của các bên mà đã đạt được hoặc các bên có thể khắc phục ngay được sự nhầm lẫn làm cho mục đích của việc xác lập giao dịch vay tiền vẫn đạt được.
Trường hợp 5: Giao dịch vay tiền giữa công ty và cá nhân vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép
Khi một bên tham gia giao dịch vay tiền do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu. Trong đó:
– Lừa dối trong giao dịch dân sự (vay tiền) là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc là về nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.
– Đe dọa, cưỡng ép trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải tiến hành thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của chính mình hoặc của người thân thích của mình.
3. Lãi suất khi công ty vay tiền của cá nhân để kinh doanh:
Căn cứ Điều 466, 468 Bộ luật Dân sự 2015 thì lãi suất khi công ty vay tiền của cá nhân để kinh doanh phải tuân thủ như sau:
– Lãi suất vay do công ty và cá nhân cho vay thỏa thuận. Trường hợp công ty và cá nhân cho vay có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay mà công ty vay của cá nhân để kinh doanh. Trường hợp công ty và cá nhân cho vay có thoả thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất của khoản tiền vay mà công ty vay của cá nhân để kinh doanh được xác định bằng 10%/năm tại thời điểm trả nợ.
– Trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì công ty vay của cá nhân để kinh doanh phải trả lãi như sau:
+ Lãi trên nợ gốc theo lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với thời hạn vay mà đến hạn công ty vay của cá nhân để kinh doanh chưa trả; trường hợp chậm trả thì còn phải trả lãi theo mức lãi suất là 10%/năm
+ Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng tương ứng với thời gian mà công ty vay của cá nhân để kinh doanh chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
Những văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Dân sự 2015.
THAM KHẢO THÊM: