Khám xét là một trong những biện pháp điều tra phổ biến trong hoạt động tố tụng hình sự, biện pháp này dễ dàng xung đột với quyền con người (cụ thể là quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình). Vậy theo quy định hiện nay thì công an có được phép khám chỗ ở của người dân khi không có lạnh hay không?
Mục lục bài viết
1. Công an được phép khám chỗ ở khi không có lệnh không?
Trước hết, chỗ ở là nơi lưu trú hợp pháp của mỗi công dân. Đây là quyền của công dân được pháp luật Việt Nam bảo vệ, căn cứ theo quy định tại Điều 22 của Hiến pháp năm 2013 có quy định:
-
Công dân có quyền có chỗ ở hợp pháp;
-
Mọi công dân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, không ai được thực hiện hành vi tự tiện vào chỗ ở của người khác khi không được sự đồng ý của người đó;
-
Việc khám chỗ ở sẽ được thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan.
Bên cạnh đó, căn cứ theo quy định tại Điều 12 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có quy định về việc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, an toàn thư tín và bí mật điện tín, điện thoại và điện tín của cá nhân. Theo đó:
-
Không ai được thực hiện hành vi xâm phạm trái quy định của pháp luật đến chỗ ở, xâm phạm đến đời sống bí mật riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, an toàn và bí mật của thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của cá nhân;
-
Quá trình khám xét chỗ ở, khám xét thư tín, tạm giữ và thu giữ thư tín, điện thoại, dữ liệu điện tử, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác cần phải được thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Như vậy, mọi công dân đều có quyền có nơi ở hợp pháp và được pháp luật bảo vệ về nơi ở đó, không ai được thực hiện hành vi xâm phạm trái phép đến chỗ ở này khi chưa được sự đồng ý của người đó. Tuy nhiên, vẫn có một số trường hợp nhất định, kể cả khi chủ nơi ở không cho phép thì lực lượng chức năng vẫn có quyền khám xét chỗ ở của công dân, tuy nhiên cần phải được thực hiện theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Căn cứ theo quy định tại Điều 192 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có quy định về căn cứ khám xét chỗ ở. Theo đó:
-
Khám xét chỗ ở, nơi làm việc, phương tiện, địa điểm, khám xét người chỉ được thực hiện khi có đầy đủ căn cứ cho rằng trong chỗ ở, người, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện đó có chứa phương tiện phạm tội, công cụ phạm tội, tài liệu, giấy tờ, đồ vật, tài sản do hành vi phạm tội mà có; hoặc có chứa các đồ vật, dữ liệu điện tử, các loại tài liệu khác có liên quan trực tiếp đến vụ án hình sự;
-
Việc khám xét người, khám xét chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện phạm tội cũng được tiến hành khi phát hiện người đang bị truy nã, trong quá trình truy tìm hoặc giải cứu nạn nhân;
-
Khi có đầy đủ căn cứ để nhận định trong điện thoại, bưu kiện, thư tín, bưu phẩm, dữ liệu điện tử có chứa phương tiện phạm tội, công cụ phạm tội, giấy tờ, tài liệu, đồ vật, các loại tài sản khác có liên quan đến vụ án hình sự thì có thể thực hiện hoạt động khám xét thư tín, điện thoại, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm và dữ liệu điện tử đó.
Như vậy, công an vẫn có thể được phép khám chỗ ở khi không có lệnh khám. Tuy nhiên, chỉ được phép thực hiện hoạt động khám xét chỗ ở của người dân khi không có lệnh trong 02 trường hợp sau đây:
-
Trong quá trình phát hiện người đang bị truy nã, trong quá trình truy tìm và giải cứu nạn nhân;
-
Khi có đầy đủ căn cứ để nhận định chỗ ở đó có chứa công cụ, phương tiện phạm tội, giấy tờ, tài liệu, đồ vật, tài sản do hành vi phạm tội mà có; hoặc có các đồ vật, dữ liệu điện tử, các loại tài liệu khác có liên quan trực tiếp đến vụ án hình sự.
2. Ai có thẩm quyền ra lệnh khám xét chỗ ở của người dân?
Căn cứ theo quy định tại Điều 193 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có quy định về thẩm quyền ra lệnh khám xét. Theo đó:
-
Người có thẩm quyền căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 113 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 là những người có quyền ra lệnh khám xét. Lệnh khám xét của những người được quy định cụ thể tại khoản 2 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 113 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (thủ trưởng hoặc phó thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp) bắt buộc phải được Viện kiểm sát có thẩm quyền phê duyệt trước khi thi hành trên thực tế;
-
Trong trường hợp khẩn cấp, những người có thẩm quyền căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 110 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 sẽ có quyền ra lệnh khám xét. Trong khoảng thời gian 24 giờ được tính bắt đầu kể từ khi khám xét xong, người có thẩm quyền ra lệnh khám xét cần phải ra thông báo bằng văn bản gửi về cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền để thực hiện quyền công tố, kiểm sát quá trình điều tra vụ án hình sự;
-
Trước khi tiến hành hoạt động khám xét trên thực tế, các điều tra viên cần phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp về thời gian tiến hành và địa điểm tiến hành khám xét, để Viện kiểm sát cử kiểm sát viên kiểm soát quá trình khám xét đó, ngoại trừ trường hợp khám xét khẩn cấp trong một số tình huống đặc biệt. Kiểm sát viên bắt buộc phải có mặt để thực hiện hoạt động kiểm soát quá trình khám xét. Nếu các kiểm sát viên vắng mặt trong quá trình khám xét thì cần phải nêu rõ vào biên bản khám xét;
-
Mọi trường hợp khám xét đều cần phải được lập biên bản căn cứ theo quy định tại Điều 178 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và đưa vào thành phần hồ sơ vụ án hình sự.
Đối chiếu với quy định tại khoản 1 Điều 113 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, người có thẩm quyền ra lệnh khám xét chỗ ở bao gồm:
-
Thủ trưởng hoặc phó thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp, trong trường hợp này thì lệnh khám xét cần phải được Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp phê chuẩn trước khi tiến hành thực hiện trên thực tế;
-
Viện trưởng hoặc phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Viện trưởng hoặc phó viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp;
-
Chánh án hoặc phó chánh án Toà án nhân dân, chánh án hoặc phó chánh án Toà án quân sự các cấp; Hội đồng xét xử.
Đối với trường hợp thủ trưởng hoặc phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp ra lệnh khám xét nhà dân thì bắt buộc phải được Viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền phê chuẩn quyết định đó trước khi thi hành trên thực tế.
Tuy nhiên cần phải lưu ý, không được bắt đầu việc khám xét chỗ ở người dân vào ban đêm, ngoại trừ trường hợp khẩn cấp tuy nhiên cần phải ghi rõ lý do vào biên bản khám xét. Khi tiến hành hoạt động khám xét chỗ ở của người dân, những người có mặt không được tự tiện rời khỏi nơi đang khám xét, không được liên hệ với nhau hoặc trao đổi với nhau hoặc liên hệ với những người khác cho đến khi quá trình khám xét đã hoàn thành.
3. Công an khám xét chỗ ở trái pháp luật thì phải chịu trách nhiệm gì?
Căn cứ theo quy định tại Điều 158 của Văn bản hợp nhất Bộ luật hình sự năm 2017 có quy định về tội xâm phạm chỗ ở của người khác. Theo đó:
Người nào thực hiện một trong những hành vi sau đây xâm phạm trái phép đến chỗ ở của người khác thì có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm: Thực hiện hành vi khám xét chỗ ở của người khác trái quy định của pháp luật, đuổi người khác ra khỏi chỗ ở của họ trái quy định của pháp luật, chiếm giữ trái phép hoặc cản trở trái phép người đang quản lý hợp pháp chỗ ở của họ, xâm nhập trái phép vào chỗ ở hợp pháp của người khác.
Người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung đó là cấm đảm nhiệm chức vụ trong khoảng thời gian từ 01 năm đến 05 năm.
như vậy, khi công an tiến hành hoạt động khám xét chỗ ở của người khác (không có lệnh khám xét, không thuộc trường hợp khám xét không cần lệnh) thì có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm. Đồng thời, tùy thuộc vào mức độ hậu quả gây ra trên thực tế mà có thể bị áp dụng khung hình phạt tăng nặng đó là phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 05 năm, có thể bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung đó là cấm đảm nhiệm chức vụ trong khoảng thời gian từ 01 năm đến 05 năm.
THAM KHẢO THÊM: