Hiện nay, có nhiều trường hợp cha mẹ vay nợ, nhưng vẫn chưa thực hiện xong nghĩa vụ trả nợ khi qua đời. Vậy con cái có phải trả nợ cho bố mẹ đã mất hay không?
Mục lục bài viết
1. Con cái có phải trả nợ cho bố mẹ đã mất hay không?
Theo quy định của pháp luật hiện nay, người thừa kế theo pháp luật đối với tài sản của người đã qua đời sẽ phải có trách nhiệm và có nghĩa vụ trả nợ trong phạm vi phần di sản mà họ được hưởng, khi người có tài sản qua đời thì những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất, trong đó bao gồm cha mẹ, vợ chồng, con của những người này sẽ được xác định là đồng thừa kế đối với di sản mà người chết để lại. Tất cả những người nêu trên sẽ phải có nghĩa vụ trong phạm vi phần di sản mà mình được hưởng để trả nợ thay cho người đã qua đời, khi thực hiện xong nghĩa vụ trả nợ, di sản của người đó còn lại giá trị bao nhiêu thì mới tiến hành hoạt động chia cho các đồng thừa kế.
Theo quy định của pháp luật hiện nay, nghĩa vụ của một người khi họ đã chết sẽ được chuyển tiếp cho những người thừa kế của người đó trong phạm vi di sản mà người chết để lại. Căn cứ theo quy định tại Điều 614 của Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định về thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ của người thừa kế. Theo đó, kể từ thời điểm mở thừa kế, tức là thời điểm mà người có di sản chết, những người thừa kế sẽ có các quyền và nghĩa vụ tài sản do người chết để lại.
Bên cạnh đó, căn cứ theo quy định tại Điều 615 của Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định về vấn đề thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại. Cụ thể như sau:
– Những người hưởng thừa kế sẽ phải có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết để lại trong phạm vi di sản của người chết, chưa trường hợp có thỏa thuận khác;
– Trong trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại sẽ được người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế trong phạm vi di sản của người chết để lại;
– Trong trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế sẽ phải có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại, tương ứng với phần di sản mà mình được hưởng, tuy nhiên không được vượt quá phần tài sản mà họ đã được nhận, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác;
– Trường hợp người thừa kế không phải là cá nhân hưởng di sản theo di chúc thì theo quy định của pháp luật, cũng cần phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại giống như những người thừa kế là cá nhân.
Như vậy có thể nói, nếu con cái được xác định là người hưởng di sản từ cha mẹ, khi cha mẹ của vợ qua đời, thì con cái sẽ phải có trách nhiệm trả các khoản nợ cha mẹ đã vay khi họ còn sống. Lúc này, con cái sẽ phải dùng tài sản mà mình được hưởng từ phần di sản để lại của cha mẹ để trả nợ cho họ. Con cái sẽ chỉ phải có trách nhiệm trả nợ cho cha mẹ trong phạm vi di sản mà họ được hưởng từ cha mẹ của họ.
2. Trả nợ thay có phải là nghĩa vụ bắt buộc của con cái không?
Căn cứ theo quy định tại Điều 70 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014 có quy định về quyền và nghĩa vụ của con. Theo đó, con sẽ có các quyền và nghĩa vụ như sau:
– Được cha mẹ yêu thương, cha mẹ tôn trọng, thực hiện đầy đủ các quyền lợi và nghĩa vụ hợp pháp về nhân thân và tài sản theo quy định của pháp luật, có quyền được học tập và được giáo dục một cách đầy đủ và toàn vẹn, và phát triển lành mạnh về thể chất, đạo đức và trí tuệ.,
– Có bổn phận yêu quý, trân trọng, hiếu thảo và biết ơn cha mẹ, có nghĩa vụ phụng dưỡng cha mẹ, gin giữ tốt danh dự và truyền thống tốt đẹp của gia đình, của cha mẹ;
– Đối với những người con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự, con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi lấy chính bản thân mình thì có quyền chung sống với cha mẹ, những người con đó sẽ được cha mẹ nuôi dưỡng và chăm sóc một cách cẩn thận;
– Con chưa thành niên có quyền tham gia vào các công việc phù hợp với lứa tuổi, hỗ trợ các công việc trong gia đình, các công việc không trái với quy định của pháp luật và không trái đạo đức xã hội, có quyền được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em;
– Đối với những đối tượng được xác định là con đã thành niên có quyền tự do được lựa chọn nghề nghiệp, lựa chọn nơi học tập, lựa chọn nơi cư trú, nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ theo nhu cầu và nguyện vọng của bản thân, phù hợp với quy định của pháp luật, tham gia vào hoạt động chính trị, kinh tế xã hội, văn hóa theo nguyện vọng và khả năng của bản thân. Trong quá trình sống cùng với cha mẹ, con có nghĩa vụ tham gia vào các công việc trong gia đình, hỗ trợ lao động sản xuất, tạo ra thu nhập nhằm đảm bảo đời sống chung của gia đình, đóng góp thu nhập để duy trì cuộc sống chung của gia đình phù hợp với khả năng của mình trên thực tế;
– Được hưởng các quyền về tài sản tương xứng với công sức đóng góp vào gia đình trong quá trình chung sống.
Theo quy định của pháp luật hiện nay thì có thể nói, chưa có bất kỳ một điều luật cụ thể nào quy định về việc phải trả nợ được xem là nghĩa vụ bắt buộc của con cái khi cha mẹ họ qua đời. Việc con cái trả nợ giúp cha mẹ sẽ dựa trên sự tự nguyện, trừ trường hợp con cái là đối tượng bảo lãnh cho các khoản vay của cha mẹ và họ là người thừa kế, thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết (tức là cha mẹ của họ) để lại theo quy định của pháp luật về thừa kế. Ngoài ra, việc trả nợ thay cho cha mẹ sẽ không được coi là nghĩa vụ bắt buộc của con cái.
3. Con cái có quyền không nhận di sản thừa kế từ cha mẹ không?
Pháp luật hiện nay có quy định cụ thể về trường hợp con cái không được nhận thừa kế của cha mẹ khi con từ chối nhận di sản căn cứ theo quy định tại Điều 620 của Bộ luật dân sự năm 2015. Cụ thể như sau:
– Con có quyền từ chối nhận di sản;
– Việc từ chối nhận di sản cần phải được lập thành văn bản, văn bản đó cần phải được gửi tới người quản lý di sản và những người thừa kế khác, cần phải gửi đến người được giao nhiệm vụ phân chia di sản để các đối tượng đó nắm bắt;
– Việc từ chối nhận di sản cần phải được thực hiện trước thời điểm phân chia di sản thừa kế trên thực tế.
Bên cạnh đó, căn cứ theo quy định tại Điều 621 của Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định về người không được quyền hưởng di sản. Bao gồm:
– Những người bị kết án về hành vi xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, có hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ đối với người để lại di sản, có hành vi xâm phạm nghiêm trọng đến danh dự và nhân phẩm của người để lại di sản;
– Người có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng đối với người để lại di sản;
– Người bị kết án về hành vi xâm phạm đến tính mạng của những người thừa kế khác, nhằm mục đích được hưởng một phần hoặc hưởng toàn bộ di sản mà người thừa kế đó có quyền được hưởng;
– Người có hành vi lừa dối hoặc cưỡng ép dưới bất kỳ hình thức nào, có hành vi ngăn cản người để lại di sản trong quá trình họ lập di chúc, có hành vi giả mạo di chúc hoặc sửa chữa di chúc, hủy di chúc trái pháp luật, che giấu di chúc nhằm mục đích hưởng một phần hoặc hưởng toàn bộ di sản trái với ý nguyện của người chết.
Tuy nhiên, những người này vẫn sẽ được hưởng di sản nếu như cha mẹ của họ biết về hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ được quyền hưởng di sản theo di chúc. Theo đó thì có thể nói, khi không nhận di sản thừa kế từ cha mẹ trên thực tế, con cái sẽ không phát sinh nghĩa vụ trả nợ thay cho cha mẹ khi cha mẹ của họ qua đời, tuy nhiên việc từ chối nhận di sản nhằm mục đích trốn tránh nghĩa vụ tài sản với người thứ ba thì đây được coi là hành vi vi phạm quy định của pháp luật.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
– Bộ luật Dân sự năm 2015.